truyện ỷ thiên đồ lông ký wiki
Truyện Dich duongthien ty với hơn 36767 truyện liên quan kho truyện Dich duongthien ty tổng hợp hay nhất - Trang 1. TruyenFun.Net. HOME; mũi nhọn diễm kinh thiên hạ! Rắn rết tâm địa đích tỷ bào muội, ỷ thế hiếp người chủ mẫu, di nương, nàng sẽ một tầng tầng xé mở các nàng
Ỷ Thiên Đồ Long Kí (Trọn Bộ 3 Cuốn) giá cực tốt, hoàn tiền 111% nếu hàng giả, nhiều mã giảm giá hôm nay, freeship, giao nhanh 2h. Trang chủ Nhà Sách Tiki Sách tiếng Việt Sách văn học Truyện kiếm hiệp Ỷ Thiên Đồ Long Kí Giấy chứng nhận Đăng ký Kinh doanh số 0309532909
Thời trẻ ông được mô tả trong Ỷ Thiên Đồ Long ký là một mỹ nam đào hoa, thích phiêu diêu tự tại. Về trung niên thì trầm tĩnh hơn, chỉ chú tâm khôi phục, đóng góp cho Minh giáo và chăm lo Dương Bất Hối, sau này được Trương Vô Kỵ nhường lại chức vị giáo chủ Minh Giáo. Trong phim:
Ỷ thiên kiếm và Đồ long đao, cùng chuyện tình cảm rắc rối của Trương Vô Kị với 4 mỹ nhân xinh đẹp. Đây là một bộ phim kiếm hiệp của Kim Dung với nội dung hấp dẫn xoay quanh câu chuyện về hai bảo vật là Ỷ thiên kiếm và Đồ long đao, cùng chuyện tình cảm rắc rối
Tình khuynh ỷ thiên ( tính chuyển ) visibility 7 star 0 0. Hán Việt: Tình khuynh ỷ thiên ( tính chuyển ) Tác giả: Lạc Hoa Nhất Trạch. Tình trạng: Hoàn thành. Mới nhất: 95. Phiên ngoại. Thời gian đổi mới: 21-10-2022. Cảm ơn: 0 lần
Truyện Truyen minh tra test thoi li thuyet với tổng số 14667 truyện liên quan. Kho truyện Truyen minh tra test thoi li thuyet tổng hợp hay nhất - Page 1. TruyenFullVn.Net. HOME; THỂ LOẠI. Ngạo Thế Cửu Trọng Thiên FULL. Tác giả: 00oxo00.
Cashberry Lừa Đảo. Chu Nguyên Chương là một nhân vật có thật xuất trong truyện Ỷ Thiên Đồ Long Ký. Tiểu sử[] Chu Nguyên Chương vốn là một giáo chúng của Minh giáo, có quen biết sâu sắc với giáo chủ Trương Vô Kỵ và tham gia khởi nghĩa chống quân Mông Cổ. Sau đó, dã tâm của Chu Nguyên Chương ngày càng lớn, hắn muốn lấy chức giáo chủ nhưng không thành do các giáo đồ chỉ phục tùng và ủng hộ Trương Vô Kỵ, tuy nhiên hắn đã âm mưu giết hại người trong giáo phái, tiêu biểu là cái chết oan của Hàn Lâm Nhi, Liêu Vĩnh Trung. Trương Vô Kỵ canh cánh trong lòng, tự thấy mình không đủ tài năng xử lý được đại sự và không trừng trị được Chu Nguyên Chương, trong lòng muốn thoái vị. Trương Vô Kỵ phải thực hiện lời hứa đưa Triệu Mẫn về Mông Cổ cùng với sự không ham màng danh lợi, chàng đã từ bỏ tất cả truyền lại chức giáo chủ Minh giáo cho Dương Tiêu, còn mình bỏ ra thảo nguyên Mông Cổ sống tiếp phần đời còn lại cùng Triệu Mẫn. Dương Tiêu tuổi già nên không tranh lại được Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương sau đó thống lĩnh Minh giáo và vận dụng binh pháp trong Vũ Mục di thư đánh đuổi người Mông Cổ, lập ra nhà Minh. Y chính là Hồng Vũ đế Minh Thái Thái Tổ lên ngôi, liền tàn sát các anh em trong Minh giáo đồng thời gán cho Minh giáo là tà giáo, phải rút lui vào trong bóng tối và đổi tên thành Nhật Nguyệt thần giáo Sau này,hậu duệ của ông Chu Do Kiểm cũng xuất hiện trong Bích Huyết Kiếm
"Võ lâm chí tônBảo đao Đồ LongHiệu lệnh thiên hạMạc cảm bất tòngỶ Thiên bất xuấtThùy nhữ tranh phong ..."Những câu này nói về Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm. Hai thứ khí giới này ẩn chứa một bí mật kinh người, người nó có thể "hiệu lệnh thiên hạ". Người cần đao để trả thù, người lại cần để giương danh với thế nhân, người lại cần chỉ để được cả thiên hạ ... Tất cả mọi người, từ tăng nhân Thiếu Lâm đến những chưởng môn nhân các đại phái, những người đại diện cho chính đạo và dĩ nhiên cả giới hắc đạo nữa đều vì cái danh vọng mà ra sức tranh đoạt đôi bảo đao và bửu kiếm . Tất cả đều rơi vào vòng tranh đoạt cá nhân mà quên cái thù chung của nước nhà, quên cái nhục mất nước trước quân Mông Cổ ... Bạn đang xem Truyện ỷ thiên đồ lông ký "Võ lâm chí tônBảo đao Đồ LongHiệu lệnh thiên hạMạc cảm bất tòngỶ Thiên bất xuấtThùy nhữ tranh phong ..."Những câu này nói về Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm. Hai thứ khí giới này ẩn chứa một bí mật kinh người, người... có nó có thể "hiệu lệnh thiên hạ". Người cần đao để trả thù, người lại cần để giương danh với thế nhân, người lại cần chỉ để được cả thiên hạ ... Tất cả mọi người, từ tăng nhân Thiếu Lâm đến những chưởng môn nhân các đại phái, những người đại diện cho chính đạo và dĩ nhiên cả giới hắc đạo nữa đều vì cái danh vọng mà ra sức tranh đoạt đôi bảo đao và bửu kiếm . Tất cả đều rơi vào vòng tranh đoạt cá nhân mà quên cái thù chung của nước nhà, quên cái nhục mất nước trước quân Mông Cổ ... Tác giả Hồng DạThể loại Xuyên Không, Truyện Ngược, Cổ Đại, Đam Mỹ, Truyện Cung Đấu, Kiếm HiệpTrạng thái FullXem thêm Bật Mí 4 Bí Quyết Trồng Hoa Nhài Trong Chậu Đúng Cách Trồng Cây Hoa NhàiTác giả ❄ᗪưηᎶ ࿇ Ɫυâη෴✒️Thể loại Xuyên Không, Dị Giới, Khoa Huyễn, Kiếm Hiệp, Huyền HuyễnTrạng thái Đang raTác giả Tô Tiểu NoãnThể loại Xuyên Không, Ngôn Tình, Cổ Đại, Truyện Sủng, Truyện Gia Đấu, Kiếm Hiệp, Huyền HuyễnTrạng thái - Website đọc truyện nhanh nhất, thân thiện nhất, và luôn cập nhật mới nhất. Đọc truyện online, đọc truyện chữ, truyện full, truyện hay. Hỗ trợ mọi trình duyệt và thiết bị di động.
Mùa xuân bao phủ đất trời. Tiết Thanh minh hoa lê nở rộ. Cây ngọc phủ tấm áo choàng trắng như tuyết. Đêm khuya thanh vắng, vầng trăng vừa tắm, sương lạnh dăng dăng. Trên trời dưới đất, ánh trăng dát bạc. Thiếu nữ như một nàng tiên, thiên tư linh tú, vạn phần thanh khiết; dáng vẻ dịu dàng, khí phách tinh anh, tài hoa lạ thường, người phàm khó sánh. Gót sen nàng in dấu muôn nơi. Đó là bài từ nhan đề “Vô tục niệm” của một bậc võ học danh gia thời Nam Tống, họ Khưu, tên Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân Tử, một trong bảy vị Toàn Chân thất tử, một nhân vật xuất sắc của giáo phái Toàn Chân. Sách Từ phẩm bình phẩm rằng “Trường Xuân Tử được người đời coi là vị tiên, mà thi từ của vị tiên ấy cũng bất hủ như ngài”. Bài từ này ca ngợi hoa lê, thực ra là tán thưởng một bạch y thiếu nữ vô cùng diễm lệ, ví “như một nàng tiên, thiên tư linh tú, vạn phần thanh khiết; dáng vẻ dịu dàng, khí phách tinh anh, tài hoa lạ thường, người phàm khó sánh”. Mỹ nữ tuyệt trần ấy là Tiểu Long Nữ, truyền nhân phái Cổ Mộ. Nàng quanh năm vận bộ bạch y, trông chẳng khác gì “cây ngọc phủ tấm áo choàng trắng như tuyết”, cộng với thiên tính thanh khiết, y hệt “vầng trăng vừa tắm”, thật xứng với ba chữ “Vô tục niệm”. Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ là láng giềng của nàng trên núi Chung Nam, sau lần gặp gỡ ấy đã viết bài từ trên. Giờ đây Khưu Xứ Cơ lánh về cõi hạc đã lâu, nàng Tiểu Long Nữ cũng đã kết duyên với Thần điêu đại hiệp Dương Quá. Trên con đường rừng ở núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam lúc này có một thiếu nữ đang cúi đầu ngâm ngợi bài từ kia. Thiếu nữ tuổi chừng đôi tám, vận bộ hoàng y, cưỡi con lừa xanh, đang thong thả đi lên núi, nghĩ thầm trong bụng “Cũng chỉ có người như Long tỷ tỷ mới xứng với chàng”. Chữ “chàng” dĩ nhiên là chỉ Thần điêu đại hiệp Dương Quá. Nàng cũng chẳng buồn cầm cương, cứ mặc cho con lừa xanh chở nàng đi. Khá lâu sau nàng lại ngâm nga “Hoan lạc thú, ly biệt khổ, tựu trung chỉ có nhi nữ si tình. Chàng thử nói xem, chàng đang ở chân trời góc bể nào đây?” Đoản kiếm bên lưng, sắc diện lộ vẻ phong trần, rõ ràng nàng viễn du đã lâu. Tuổi xuân như hoa, chính đang lúc hồn nhiên vô ưu, vậy mà sắc diện nàng lại phảng phất nỗi sầu muộn, đầu mày cuối mắt không thể che giấu được. Thiếu nữ này họ Quách, đơn danh có một chữ Tương, là thứ nữ của đại hiệp Quách Tĩnh và nữ hiệp Hoàng Dung, có một ngoại hiệu là Tiểu Đông Tà. Một lừa một kiếm, nàng chu du tha thẩn nơi này chốn nọ cho vơi nỗi sầu. Nào ngờ chốn danh sơn lẻ bóng chỉ càng thêm hiu quạnh, chẳng khác gì uống rượu quên sầu càng sầu thêm. Thế núi Thiếu Thất tỉnh Hà Nam hiểm trở, nhưng sơn đạo lại khá rộng và được lát các bậc đá, quy mô đồ sộ, tốn bao sức người, dài tám dặm này, được mở ra để vua Cao Tông đời Đường ngự giá Thiếu Lâm tự. Con lừa xanh của Quách Tương cứ cắm cúi đi, chỉ thấy từ trên quả núi đối diện có năm thác nước nhỏ đổ xuống, tung tóe muôn ngàn hạt ngọc; xung quanh trập trùng đồi núi, nhìn xuống bên dưới, vạn vật đã nhỏ như đàn kiến. Qua một khúc quành, thấy xa xa hiện ra một tòa tự viện tường vàng ngói xanh vô cùng bề thế. Nàng ngắm tòa đại tự một hồi, thầm nghĩ “Thiếu Lâm tự vốn là nguồn gốc võ học của thiên hạ, nhưng hai phen luận kiếm ở Hoa Sơn, tại sao trong số Ngũ tuyệt hoàn toàn không thấy một vị cao tăng nào của Thiếu Lâm tự? Chẳng lẽ các vị hòa thượng Thiếu Lâm tự biết không nắm chắc phần thắng, sợ làm mất uy danh nên không dám phó hội? Hay họ dốc lòng tu luyện tinh thâm, võ công cái thế, nhưng không muốn tranh cường đồ thắng với người ngoài?” Nàng xuống lừa, thong thả đi bộ tới trước chùa, chỉ thấy cây cối um tùm, có một dãy bia đá. Các tấm bia đã bị hủy hoại quá nửa, chữ khắc mờ đi không còn đọc nổi. Nàng nghĩ “Chữ khắc vào bia đá sau bao năm tháng còn bị mờ đi; vậy mà sao những gì khắc trong tim ta thì cứ càng ngày lại càng sâu đậm?” Trên một tấm bia lớn có khắc lời Đường Thái Tông khen ngợi tăng chúng Thiếu Lâm tự đã lập công giúp Đường Thái Tông dẹp loạn Vương Thế Sung. Khi Đường Thái Tông cất binh thảo phạt, các hòa thượng Thiếu Lâm tự đã đầu quân, trong đó mười ba vị lập công lớn. Nhưng chỉ có một hòa thượng là Đàm Tông nhận tước phong Đại tướng quân, còn mười hai vị kia không muốn làm quan. Đường Thái Tông bèn ban cho mỗi vị một tấm áo cà sa bằng lụa tía. Quách Tương nghĩ thầm “Thời Tùy – Đường, võ công của Thiếu Lâm tự đã vang danh thiên hạ, mấy trăm năm nay lại càng thêm tinh xảo, chùa này ngọa hổ tàng long, hẳn có không biết bao nhiêu cao thủ”. Ba năm trước, Quách Tương chia tay với Dương Quá và Tiểu Long Nữ trên đỉnh Hoa Sơn, từ bấy đến nay nàng không nhận được tin tức gì về hai người ấy nữa. Nàng nhớ họ da diết, liền thưa với phụ mẫu, rằng nàng muốn đi du sơn ngoạn thủy; thực ra là để nghe ngóng tin tức của Dương Quá. Không nhất thiết nàng phải gặp gỡ phu phụ Dương Quá, chỉ cần hay tin họ hành hiệp như thế nào trên giang hồ là nàng đủ mãn nguyện rồi. Đằng này từ sau khi từ biệt, phu phụ Dương Quá không hề lộ diện trên giang hồ, chẳng biết họ ẩn cư chốn nào. Quách Tương đã đi từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây, cơ hồ đi quá nửa đất Trung nguyên mà không nghe chút phong thanh gì về Thần điêu đại hiệp. Hôm nay tới Hà Nam, nàng chợt nhớ ở Thiếu Lâm tự có một vị hòa thượng là Vô Sắc thiền sư vốn là hảo hữu của Dương Quá, khi nàng tròn mười sáu tuổi, do nể tình Thần điêu đại hiệp, Vô Sắc thiền sư đã cho người mang quà đến mừng tặng nàng. Tuy đôi bên chưa diện kiến, nhưng nàng cứ thử tới thăm hỏi Vô Sắc thiền sư một phen, không chừng thiền sư biết được tung tích của Dương Quá cũng nên. Vậy là nàng tới Thiếu Lâm tự. Đang lúc xuất thần, bỗng từ phía sau cánh rừng có hàng bia vọng tới tiếng xích sắt loảng xoảng, một người đang tụng niệm kinh Phật “Thị thời dược xoa cộng vương lập yếu, tức ư vô lượng bách thiên vạn ức đại chúng chi trung, thuyết thắng diệu già tha viết Do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố; nhược ly ư ái giả, vô ưu diệc vô bố”[1]. Quách Tương nghe mấy câu kệ đó, bất giác sững người, nghĩ thầm “Vì ái tình mà sinh lo buồn, vì ái tình mà sinh sợ hãi; nếu từ bỏ ái tình, sẽ khỏi lo buồn cùng sợ hãi”. Tiếng xích sắt và tiếng tụng kinh xa dần. Quách Tương nói nhỏ “Ta phải hỏi người ấy làm thế nào mới từ bỏ được ái tình, làm thế nào mới khỏi lo buồn cùng sợ hãi?” Nàng bèn buộc con lừa vào một gốc cây, rồi vạch lá đuổi theo người kia. Chỉ thấy trên con đường mòn có một hòa thượng quẩy đôi thùng lớn, thong thả đi lên núi. Quách Tương rảo bước theo, khi còn cách vị hòa thượng bảy, tám trượng, thì nàng bất giác cả kinh – hóa ra đó là đôi thùng bằng sắt, to gấp đôi loại thùng gánh nước quen dùng; mà vị hòa thượng thì cổ, tay và chân đều bị tròng xích sắt to tướng, mỗi bước đi lại kéo dây kêu loảng xoảng. Riêng đôi thùng sắt đã nặng hai trăm cân lại đựng đầy nước, sức nặng thật kinh hồn. Quách Tương gọi “Đại hòa thượng, xin dừng bước, tiểu nữ có điều cần thỉnh giáo!” Vị hòa thượng kia ngoảnh đầu lại, hai người nhìn thấy nhau cùng ngạc nhiên. Thì ra vị hòa thượng chính là Giác Viễn. Ba năm trước, hai bên đã có duyên diện kiến trên đỉnh Hoa Sơn. Quách Tương biết vị hòa thượng này tuy tính nết cổ hủ, nhưng nội công thâm hậu không thua kém bất cứ cao thủ nào, bèn nói – Tưởng ai, hóa ra Giác Viễn đại sư. Tại sao đại sư lại đến nông nỗi này? Giác Viễn gật đầu, mỉm cười, chắp tay hành lễ, không nói một lời, quay mình đi. Quách Tương gọi – Giác Viễn đại sư, đại sư không nhận ra tiểu nữ sao? Tiểu nữ là Quách Tương đây mà. Giác Viễn quay đầu lại, mỉm cười gật đầu, song vẫn không dừng bước. Quách Tương hỏi – Ai xiềng xích đại sư như thế? Tại sao người ta lại ngược đãi đại sư tới mức này chứ? Giác Viễn giơ tay trái ra sau gáy xua xua ngụ ý nàng khỏi cần hỏi han. Quách Tương thấy có chuyện kỳ quái như vậy, chưa rõ nguồn cơn, lẽ nào nàng chịu để yên? Nàng chạy vọt lên tính chắn đường Giác Viễn, ai ngờ Giác Viễn tuy toàn thân đầy xích sắt, lại phải gánh đôi thùng sắt cực nặng, song Quách Tương chạy nhanh mấy cũng không thể đuổi kịp. Tính tự ái trẻ con trỗi dậy, nàng bèn thi triển thuật khinh công gia truyền, hai chân lướt như bay trên mặt đất. Khi tới gần, nàng giơ tay định chụp lấy miệng thùng sắt, nào ngờ chụp hụt, bàn tay vẫn còn cách miệng thùng hai phân. Quách Tương nói – Bản lĩnh của đại sư quả lợi hại, tiểu nữ phải theo cho kịp mới được. Chỉ thấy Giác Viễn cứ thế đi tiếp, tiếng xích sắt vang lên như tiếng nhạc, càng lúc càng lên cao, vang đến tận sau núi. Quách Tương đuổi đã mệt, hơi thở hổn hển mà vẫn còn cách Giác Viễn hơn một trượng, bất giác thán phục thầm “Hồi trên đỉnh Hoa Sơn, phụ mẫu ta có nói vị hòa thượng này nội công rất cao, ta không tin lắm. Hôm nay thử tài một chút, mới biết lời phụ mẫu ta quả nhiên chẳng sai chút nào”. Chỉ thấy Giác Viễn quay mình rẽ vào một tiểu thất, đổ hai thùng nước vào một cái giếng. Quách Tương rất đỗi ngạc nhiên, liền hỏi – Đại sư có khùng hay không mà lại đi gánh nước đổ vào giếng chứ? Giác Viễn sắc diện vẫn bình thản, chỉ lắc đầu. Quách Tương chợt hiểu, cười nói – Chà, thì ra đại sư đang luyện một môn võ công cao siêu. Giác Viễn lại lắc đầu. Quách Tương bực tức, nói – Vừa nãy tiểu nữ đã nghe thấy đại sư tụng kinh rõ ràng không phải người á khẩu, tại sao đại sư không trả lời tiểu nữ? Giác Viễn chắp tay hành lễ, vẻ mặt sượng sùng, không thốt một lời, lại quẩy đôi thùng đi xuống núi. Quách Tương ngó thử vào trong giếng, chỉ thấy nước trong veo, cũng chẳng có gì lạ; nàng ngẩn người nhìn theo Giác Viễn đang đi xuống núi, trong lòng khó hiểu. Vừa rồi nàng gắng sức đuổi theo Giác Viễn nên bây giờ đã thấy thấm mệt, hơi thở còn hổn hển, nàng bèn ngồi xuống thành giếng ngắm phong cảnh. Chỗ nàng ngồi cao hơn Thiếu Lâm tự, nhưng nhìn lên thì núi Thiếu Thất vẫn còn cao ngất trời với những dải sương mù vắt ngang. Gió đưa tiếng chuông chùa từ phía dưới vọng lên khiến người nghe như trút hết phiền tục. Quách Tương nghĩ thầm “Không biết đệ tử của vị đại sư kia ở đâu? Đại sư không chịu mở miệng thì mình đành tìm gã thiếu niên nọ hỏi cho ra lẽ”. Đoạn nàng lững thững đi xuống núi để tìm đệ tử của Giác Viễn tên là Trương Quân Bảo. Nàng đi một quãng, chợt nghe tiếng xích sắt loảng xoảng, thì ra Giác Viễn đã lại gánh nước lên núi rồi. Nàng bèn nấp sau một gốc cây, nghĩ thầm “Mình phải ngầm theo dõi xem lão hòa thượng này rốt cuộc làm trò quỷ gì đây”. Tiếng xích sắt đã tới gần, chỉ thấy Giác Viễn vẫn gánh đôi thùng sắt, một tay cầm cuốn sách gì đó, chăm chú thấp giọng tụng kinh. Quách Tương chờ vị hòa thượng đi ngang qua thì thình lình nhảy ra hỏi – Đại sư đang đọc sách gì vậy? Giác Viễn thất thanh la lên – Ối chà, làm bần tăng giật cả mình! Vẫn lại là cô nương. Quách Tương cười thích thú – Đại sư giả câm không thành rồi. Giác Viễn có vẻ hoảng hốt, nhìn sang hai bên rồi xua xua tay. Quách Tương hỏi – Đại sư sợ ai chứ? Giác Viễn chưa kịp đáp, thì đột nhiên từ sau các bụi cây có hai hòa thượng mặc áo màu tro bước ra, một cao gầy, một thấp mập. Vị cao gầy quát – Giác Viễn không tuân thủ giới pháp, tự tiện mở miệng đối đáp với người ngoài bổn tự, huống hồ người ấy lại là một thiếu nữ. Vậy hãy theo ta lên gặp thủ tọa Giới luật đường. Giác Viễn cúi mặt buồn bã, gật gật đầu, đi theo hai hòa thượng kia. Quách Tương vừa ngạc nhiên vừa tức giận, nói lớn – Thiên hạ lại có luật cấm người ta mở miệng ư? Ta quen biết vị đại sư này, ta hỏi chuyện vị đó thì can hệ gì tới hai vị kia chứ? Vị hòa thượng cao gầy trợn mắt nói – Cả ngàn năm nay Thiếu Lâm tự vẫn cấm nữ lưu lai vãng. Mời cô nương xuống núi ngay cho để khỏi chuốc lấy những điều khó xử. Quách Tương càng giận, nói – Nữ lưu thì sao? Chẳng lẽ nữ lưu không phải là người? Tại sao các vị gây khó dễ cho Giác Viễn đại sư, đã xiềng xích đại sư, còn cấm đại sư nói là nghĩa lý gì? Vị hòa thượng kia lạnh lùng đáp – Việc của bổn tự, ngay hoàng đế cũng không được can thiệp, cô nương hà tất đa vấn. Quách Tương cả giận – Ta biết vị đại sư này là người hiền lành trung hậu, vậy mà các người lại hành hạ đại sư như thế thì lạ thật. Còn Thiên Minh thiền sư đâu rồi? Vô Sắc thiền sư, Vô Tướng thiền sư ở đâu cả? Các người mau gọi mấy vị ấy ra đây, ta muốn hỏi thử việc này là nghĩa lý gì. Hai hòa thượng kia nghe nàng nói vậy thì giật mình. Thiên Minh thiền sư là Phương trượng của Thiếu Lâm tự, Vô Sắc thiền sư là Thủ tọa La Hán đường, Vô Tướng thiền sư là Thủ tọa Đạt Ma đường, ba vị ấy đức cao vọng trọng, tăng nhân trong chùa đều kính cẩn gọi các vị ấy là “lão Phương trượng”, “Thủ tọa La Hán đường”, “Thủ tọa Đạt Ma đường” chứ không dám gọi ngay pháp danh của họ; ai ngờ con nhỏ này lại dám lên núi lớn tiếng gọi thẳng pháp danh của họ ra như vậy. Hai hòa thượng kia đều là đệ tử của Thủ tọa Giới luật đường, phụng mệnh Thủ tọa thiền sư giám thị Giác Viễn. Lúc này nghe thấy Quách Tương nói năng vô lễ, vị hòa thượng cao gầy liền quát – Nữ thí chủ kia nếu còn gây sự trước Phật môn thanh tịnh thì đừng trách bần tăng không khách khí. Quách Tương nói – Chẳng lẽ ta ngán nhà ngươi ư? Nhà ngươi hãy mau mau cởi bỏ xiềng xích cho Giác Viễn đại sư, bằng không ta sẽ đi tìm Thiên Minh hòa thượng mà hỏi cho ra lẽ. Vị hòa thượng thấp mập nghe Quách Tương nói năng lỗ mãng, lại thấy nàng đeo đoản kiếm, bèn xẵng giọng – Nữ thí chủ hãy để binh khí lại, bần tăng cũng không định tranh hơn thua làm gì, nữ thí chủ hãy mau xuống núi cho yên chuyện. Quách Tương gỡ thanh đoản kiếm ra, hai tay nâng lên, cười nhạt – Thì đây, xin tuân lệnh. Hòa thượng này xuất gia ở Thiếu Lâm tự từ nhỏ, luôn nghe thấy các sư bá, sư thúc và sư huynh kể rằng Thiếu Lâm tự là khởi nguyên của võ học trong thiên hạ, rằng bất cứ nhân vật nào danh vọng lớn đến đâu, bất cứ cao thủ võ lâm nào tài ba đến mấy, xưa nay cũng chẳng dám mang theo binh khí vào cổng Thiếu Lâm tự. Cô nương này tuy chưa bước qua cổng Thiếu Lâm tự, nhưng đã ở trong phạm vi nhà chùa; nay nàng ta hai tay nâng kiếm thế kia hẳn là biết sợ rồi, hòa thượng bèn giơ tay cầm lấy thanh kiếm. Ngón tay của hòa thượng vừa chạm cán kiếm thì đột nhiên cánh tay ấy như bị điện giật, cảm thấy một cường lực từ thanh kiếm truyền sang, đẩy hòa thượng ngã ngửa ra phía sau, hai chân loạng choạng không vững, bị ngã sóng soài, chỗ ngã lại dốc, thế là y lăn xuống phía dưới mấy trượng mới chộp được búi cỏ khỏi bị lăn tiếp. Hòa thượng cao gầy vừa ngạc nhiên vừa tức giận, quát – Ngươi đúng là ăn tim sư tử, uống mật hổ báo nên mới dám đến Thiếu Lâm tự gây sự mà. Đoạn tiến một bước, hữu thủ vung quyền, tả chưởng tiếp theo hữu quyền, thành song chưởng chém xuống, chính là thế thứ hai mươi tám “Phiên thân phách kích” của Sấn Thiếu Lâm. Quách Tương cầm thanh kiếm còn nằm trong bao chém vào vai hòa thượng kia. Y trầm vai thu một tay về, tay kia chộp thanh kiếm. Giác Viễn đứng bên nhìn cảnh ấy, hoảng sợ kêu to – Đừng động thủ, đừng động thủ! Có gì hãy thương lượng thì hơn. Lúc ấy vị hòa thượng kia đã chộp tới thanh kiếm, chính đang vận sức định giành lấy bỗng cảm thấy lòng bàn tay chấn động, rồi cả cánh tay tê dại, chỉ kịp kêu “Nguy tai!” thì Quách Tương đã dùng chân trái gạt ngang, đẩy y ngã lăn lông lốc xuống dốc, đầu và mặt y bị va nhiều chỗ, xây xát rớm máu, rồi mới dừng được. Quách Tương nghĩ thầm “Mình lên Thiếu Lâm tự là định thăm dò tin tức của đại ca, vô duyên vô cớ lại động thủ với hai hòa thượng kia, thật chẳng hay ho chút nào”. Nàng thấy Giác Viễn đứng bên với vẻ mặt khổ sở, bèn vung thanh kiếm chặt đứt xiềng xích ở chân tay của đại sư. Kiếm của nàng tuy chưa thuộc vào hàng bảo kiếm, nhưng cũng cực kỳ sắc bén nên vừa nghe “keng keng” mấy tiếng thì xiềng xích đã đứt thành ba đoạn. Giác Viễn luôn miệng kêu “Không được đâu! Không được đâu!” Quách Tương nói – Sao lại không được? Đoạn nàng chỉ về phía hai hòa thượng một cao một thấp đang chạy vào chùa, nói – Hai gã ác tăng kia chắc là chạy đi báo tin, chúng ta hãy đi thôi. Tiểu đồ đệ họ Trương của đại sư đâu rồi? Hãy đem gã đi luôn thể! Giác Viễn chỉ xua xua tay. Chợt nghe sau lưng có tiếng người nói – Đa tạ cô nương quan tâm, tiểu đệ đây. Quách Tương quay đầu lại, thấy phía sau có một thiếu niên trạc mười sáu mười bảy tuổi, mắt to mày thô, thân hình vạm vỡ, song vẻ mặt trông hết sức thơ ngây, chính là Trương Quân Bảo mà nàng đã gặp trên đỉnh Hoa Sơn ba năm về trước. Bây giờ Trương Quân Bảo cao lớn hơn hẳn hồi ấy, riêng vẻ mặt chẳng thay đổi chút nào. Quách Tương cả mừng, nói – Các ác tăng nơi đây khinh khi sư phụ của đệ, chúng ta rời bỏ nơi này thôi. Trương Quân Bảo lắc đầu nói – Chẳng ai khinh khi sư phụ của đệ cả. Quách Tương chỉ Giác Viễn nói – Hai gã ác tăng ban nãy đã dùng xiềng xích trói buộc sư phụ của đệ lại còn không cho nói nửa lời, chẳng phải là khinh khi đó sao? Giác Viễn cười khổ, lắc đầu, chỉ tay xuống núi, ý bảo Quách Tương hãy mau thoát thân, kẻo ở lại sẽ gặp rắc rối. Quách Tương thừa biết Thiếu Lâm tự có biết bao nhiêu cao thủ võ công hơn hẳn nàng, nhưng chứng kiến cảnh bất bình nhãn tiền thế này, nàng không thể khoanh tay làm ngơ. Song nàng lo ngại các cao thủ trong chùa ra ngăn chặn, bèn một tay kéo Giác Viễn, một tay kéo Trương Quân Bảo, giậm chân nói – Mau mau chạy đi đã, có việc gì xuống được dưới núi hãy nói. Hai người kia cứ đứng im một chỗ. Bỗng thấy trên sườn núi bên cửa hông Thiếu Lâm tự có bảy tám tăng nhân xông ra, tay cầm gậy, miệng quát – Con nhóc nào cả gan đến Thiếu Lâm tự gây sự đó? Trương Quân Bảo lớn tiếng đáp – Các vị sư huynh chớ vô lễ, vị này là… Quách Tương vội ngăn – Đừng nói lộ tên của ta. Nàng nghĩ vụ rắc rối này xem ra không nhỏ, không khéo chẳng thể dàn xếp ổn thỏa; bởi vậy không nên để liên lụy đến phụ mẫu. Thế là nàng giục thêm – Ba chúng ta cứ băng rừng mà chạy. Dù thế nào cũng chớ nhắc đến tên phụ mẫu và bằng hữu của tiểu nữ! Chợt trên đỉnh núi phía sau nghe mấy tiếng quát, lại thêm bảy, tám tăng nhân xông tới. Quách Tương thấy trước sau đều có các tăng nhân xuất hiện, bèn cau mày nói – Sao hai người cứ rụt rụt rè rè như thiếu nữ thế? Chẳng có chí khí nam nhi gì cả! Hai người có định chạy hay không nào? Trương Quân Bảo nói – Thưa sư phụ, Quách cô nương đã có thiện ý như thế… Lúc ấy từ bên cửa hông Thiếu Lâm tự lại có bốn hoàng y hòa thượng xông ra và lao về phía Quách Tương; tay họ không có khí giới, nhưng thân pháp lanh lẹ, tay áo quạt gió đủ biết võ công thuộc loại khá cao siêu. Quách Tương thấy tình thế này dù nàng muốn một mình thoát thân cũng chẳng nổi, bèn đứng yên coi diễn biến ra sao. Một hòa thượng chạy tới cách nàng bốn trượng, dõng dạc cất tiếng – Tôn sư Thủ tọa La Hán đường truyền dụ kẻ lạ mặt hãy bỏ khí giới, xuống Nhất Lô đình dưới chân núi tường trình sự việc và nghe pháp dụ. Quách Tương cười nhạt – Đại hòa thượng của Thiếu Lâm tự thật là quan cách quá chừng! Chẳng hay các vị đại hòa thượng làm quan cho hoàng đế Đại Tống hay hoàng đế Mông Cổ vậy? Thời gian này từ sông Hoài trở lên phía bắc, quốc thổ của Đại Tống đều đã rơi vào tay quân Mông Cổ; Thiếu Lâm tự nằm trên địa phận do Mông Cổ cai quản, nhưng vì đại quân Mông Cổ mấy năm nay liên tục tấn công vẫn chưa hạ nổi thành Tương Dương, còn bận điều binh khiển tướng, không có lực lượng cai quản chùa chiền am miếu nên Thiếu Lâm tự mới được giữ nguyên vẹn. Vị hòa thượng kia nghe Quách Tương mỉa mai lợi hại như vậy thì bất giác đỏ mặt, thầm nghĩ hạ lệnh cho người ngoài như vừa rồi cũng hơi quá, bèn đổi giọng, chắp tay nói – Không biết nữ thí chủ có việc gì mà quang lâm tệ tự, xin hãy bỏ khí giới, xuống Nhất Lô đình dưới chân núi dùng trà, nói chuyện. Quách Tương nghe đối phương đổi giọng ôn hòa thì muốn nhân đây rút lui cho xong, bèn nói – Các vị không cho ta vào chùa thì thôi, ta đâu cần. Hừ, cứ làm như trong Thiếu Lâm tự có báu vật, ta được trông thấy thì sẽ vẻ vang hơn không bằng. Đoạn nàng đưa mắt cho Trương Quân Bảo, thấp giọng hỏi – Thế nào? Có đi hay không? Trương Quân Bảo lắc đầu, liếc mắt về phía Giác Viễn, ngụ ý là mình còn phải theo hầu sư phụ. Quách Tương nói rõ – Thôi được, vậy ta mặc các người, ta đi đây. Đoạn nàng đi nhanh xuống núi. Hoàng y hòa thượng thứ nhất né sang một bên nhường đường, nhưng vị thứ hai và thứ ba thì cùng giơ tay ngăn lại và nói – Hãy khoan. Bỏ khí giới lại đã! Quách Tương cau mày, tay nắm cán kiếm. Hoàng y hòa thượng thứ nhất nói – Chúng tăng cũng không dám giữ khí giới của nữ thí chủ đâu. Nữ thí chủ xuống dưới kia rồi, chúng tăng sẽ hoàn trả bảo kiếm tức thì, đó là luật lệ của Thiếu Lâm tự đã có từ ngàn năm nay, mong nữ thí chủ hiểu cho. Quách Tương nghe vị kia nói năng từ tốn, nghĩ thầm “Nếu không để kiếm lại, ắt xảy ra quyết đấu, ta chỉ có một mình, làm sao địch nổi từng kia tăng chúng? Nhưng để kiếm lại, hóa ra làm mất hết thể diện của ông ngoại, của phụ mẫu, của đại ca ca và Long tỷ tỷ ư?” Nàng đang phân vân chưa quyết, chợt loáng một cái bóng vàng phía trước, kèm theo tiếng quát – Cả gan mang kiếm tới Thiếu Lâm tự, lại còn đả thương người khác, có lý nào như vậy? Rồi kình phong tràn tới, chỉ thấy năm ngón tay chộp lấy thanh đoản kiếm. Nếu hòa thượng kia không đột nhiên động thủ, có lẽ sau giây lát phân vân, Quách Tương hẳn sẽ để kiếm lại. Tính nàng khác hẳn tính của Quách Phù là tỷ tỷ của nàng, tuy hào sảng, nhưng không thô lỗ; tình cảnh trước mắt quá ư bất lợi, thì đành nín nhịn, sau đó sẽ bàn với ông ngoại và phụ mẫu, trở lại vụ này. Đằng này đối phương lại bất ngờ cậy thế mạnh, nàng há có thể trơ mắt để người ta tước đoạt khí giới của mình? Cầm nã thủ pháp của tăng nhân kia vừa độc địa vừa tinh xảo, y vừa chộp lấy bao kiếm bèn nghĩ thầm “Con nhỏ thể nào cũng giằng lại, mà một hòa thượng đi giằng co với thiếu nữ thì coi sao được”, y liền vận nội công đẩy chếch sang bên tả, rồi kéo mạnh về bên hữu. Quách Tương bị y đẩy và kéo như thế, quả nhiên không giữ chắc nổi bao kiếm, nàng bèn nắm cán kiếm rút phắt ra; chỉ nghe “xoẹt” một tiếng, hàn quang lóe lên. Hòa thượng kia hữu thủ đoạt được bao kiếm, nhưng hai ngón tay của tả thủ thì bị thanh kiếm tiện đứt, đau quá, y buông rơi bao kiếm, nhảy lùi sang một bên. Các tăng nhân thấy đồng môn bị thương thì hết thảy tức giận, cùng vung côn và trượng xông tới. Quách Tương nghĩ thầm “Đã trót thì trét; dầu sao hôm nay cũng không yên rồi”, nàng liền thi triển “Lạc Anh kiếm pháp” gia truyền, vừa đánh vừa chạy xuống núi. Lạc Anh kiếm pháp là do Hoàng Dược Sư diễn hóa từ “Lạc Anh chưởng pháp” mà ra, tuy không tinh diệu như Ngọc Tiêu kiếm pháp, song cũng là một tuyệt kỹ của Đào Hoa đảo; chỉ thấy thanh quang loang loáng, kiếm hoa điểm điểm tựa như các cánh hoa rơi rụng tản mác tứ phía. Trong chớp mắt đã có hai tăng nhân bị thương, nhưng mấy người khác từ phía sau cùng xông tới, từ trên đánh xuống. Quách Tương bị hai mũi giáp công, lẽ ra nàng khó bề chống cự, song các hòa thượng Thiếu Lâm tự lấy từ bi làm gốc, không định hạ sát nàng, nên chiêu thức của họ chỉ cốt đánh ngã nàng hòng giáo huấn nàng một phen, tước khí giới rồi đuổi nàng xuống núi. Thế nhưng kiếm quang của Quách Tương rất lợi hại, họ chẳng dễ gì tiếp cận được. Ban đầu các tăng nhân cứ tưởng hàng phục một thiếu nữ đâu có gì khó. Nhưng sau thấy kiếm pháp tinh xảo của nàng, mới đoán rằng nếu nàng không phải là môn hạ của một môn phái danh tiếng thì cũng là đệ tử của một danh sư; thế là họ sợ đắc tội, xuất chiêu càng thêm thận trọng, một mặt cho người cấp báo với Thủ tọa La Hán đường là Vô Sắc thiền sư. Trong lúc diễn ra cuộc đấu, có một lão tăng cao gầy, hai tay lồng vào tay áo, thong thả đi tới, mỉm cười quan sát. Hai tăng nhân đến bẩm nhỏ vài câu với vị lão tăng. Quách Tương đấu đã mệt, kiếm pháp đã rối, liền lớn tiếng – Thế cũng đòi là nguồn gốc của võ học thiên hạ! Chẳng qua hàng chục hòa thượng vây đánh một người, cậy đông để thắng thôi. Vị lão tăng kia chính là Vô Sắc thiền sư, Thủ tọa La Hán đường, thấy nàng nói vậy, bèn lên tiếng – Các người dừng tay! Các tăng nhân lập tức xuôi tay nhảy sang hai bên. Vô Sắc thiền sư nói – Cô nương quý tính là gì, lệnh tôn và lệnh sư là ai? Cô nương quang lâm Thiếu Lâm tự chẳng hay có việc chi? Quách Tương nghĩ thầm “Mình không thể cho vị này biết danh tính của phụ mẫu. Ngay cả việc mình đến Thiếu Lâm tự để nghe tin tức của đại ca, cũng không thể nói ra trước mặt mọi người. Hôm nay mình gây chuyện rắc rối, ngày sau phụ mẫu và đại ca biết chuyện sẽ trách cứ mình, chi bằng mình cứ lẳng lặng mà đi thì hơn”. Nghĩ đoạn, nàng đáp – Tính danh tiểu nữ không tiện thưa với đại sư. Tiểu nữ chẳng qua thấy phong cảnh trên núi quá đẹp, nên tiện đường ghé qua du ngoạn. Nào ngờ Thiếu Lâm tự còn lợi hại hơn cả hoàng cung, động một chút đã bị người ta đòi tước binh khí. Thỉnh vấn đại sư, tiểu nữ đã bước vào đại môn của quý tự hay chưa? Năm xưa Đạt Ma tổ sư truyền lại võ nghệ chẳng qua cốt giáo huấn chúng tăng khỏe mạnh để tu hành tăng tiến; nào ngờ danh tiếng của Thiếu Lâm tự càng lớn, võ công càng cao, thì những vị cậy thế hiếp đáp người khác càng nhiều. Được thôi, các vị muốn tước khí giới của tiểu nữ thì cứ việc tước, cũng nên hạ sát tiểu nữ luôn, kẻo giới giang hồ thể nào cũng hay biết chuyện hôm nay. Lý lẽ của Quách Tương khá sắc sảo, vả lại vụ này cũng không hoàn toàn do lỗi của nàng nên Vô Sắc thiền sư lúng túng chưa biết trả lời ra sao. Quách Tương quan sát sắc diện, nghĩ thầm “Vụ rắc rối hôm nay mình sợ người ta biết đã đành, xem ra Thiếu Lâm tự càng không muốn lan rộng ra ngoài. Mười mấy hòa thượng vây đánh một thiếu nữ mà lộ ra thì hay ho nỗi gì?” Nàng bèn hừ một tiếng, ném thanh kiếm xuống đất, dợm chân bỏ đi. Vô Sắc thiền sư bước tới, phất tay áo một cái, đã cuốn thanh kiếm lên, dùng hai tay nâng thân kiếm, nói – Cô nương đã không muốn để lộ gia môn sư thừa thì hãy thâu lại thanh bảo kiếm, lão tăng sẽ thân chinh tiễn cô nương xuống núi. Quách Tương nhếch mép cười – Vị đại sư này còn thấu tình đạt lý, thế mới đúng phong cách của một danh gia. Nàng được thể liền thuận miệng tán dương Vô Sắc thiền sư một câu, rồi giơ tay ra nhận thanh kiếm, nhưng bất giác kinh hãi vì đối phương phát ra từ lòng bàn tay một luồng lực đạo giữ chặt thanh kiếm, khiến nàng tuy đã nắm cán kiếm rồi nhưng không tài nào nhấc nổi. Mấy phen nàng vận lực vẫn không sao lấy được thanh kiếm, bèn nói – Được, thì ra đại sư định biểu diễn võ công kia đấy! Đoạn nàng phẩy tả thủ, định điểm nhẹ vào hai huyệt Thiên Đỉnh và Cự Cốt ở phía cổ bên trái của Vô Sắc thiền sư. Vô Sắc thiền sư hơi rùng mình, nghiêng người né tránh, lực giữ thanh kiếm giảm đi, nhờ vậy Quách Tương lấy được thanh kiếm về. Vô Sắc thiền sư nói – Công phu “Lan hoa phất huyệt thủ”[2] quả là lợi hại! Chẳng hay cô nương xưng hô thế nào với Đào Hoa đảo chủ? Quách Tương vừa cười vừa đáp – Đào Hoa đảo chủ ấy ư? Tiểu nữ gọi vị ấy là Lão Đông Tà. Đào Hoa đảo chủ Đông Tà Hoàng Dược Sư là ông ngoại của Quách Tương, tính nết quái dị, xưa nay không câu nệ lễ giáo, thường gọi đứa cháu gái nhỏ là Tiểu Đông Tà; còn Quách Tương gọi ông ngoại là Lão Đông Tà. Nghe đứa cháu gọi mình như thế, Hoàng Dược Sư chẳng cho là hỗn xược mà còn lấy làm thích thú. Nguyên Vô Sắc thiền sư thuở thiếu thời xuất thân lục lâm, sau vào cửa thiền tu luyện đã mấy chục năm, rất tinh thâm Phật học, nhưng hào khí thuở nào vẫn không giảm, nếu không đã chẳng kết thành hảo hữu với Dương Quá. Nay thấy tiểu cô nương không chịu để lộ lai lịch sư thừa, Vô Sắc thiền sư càng muốn nàng phải nói ra, bèn vừa cười vừa nói to – Cô nương thử tiếp mười chiêu của lão tăng, xem nhãn lực của lão tăng có thể nhận biết môn phái của cô nương hay chăng? Quách Tương hỏi – Nếu trong mười chiêu mà không nhận biết nổi thì sao? Vô Sắc thiền sư cười ha hả – Nếu tiểu cô nương tiếp được mười chiêu của lão tăng thì còn nói gì nữa, lão tăng nguyện làm theo ý của tiểu cô nương. Quách Tương chỉ Giác Viễn, nói – Tiểu nữ và vị đại sư này từng có duyên diện kiến một lần, nên tiểu nữ muốn thỉnh cầu giúp đại sư này một việc. Nếu trong mười chiêu mà đại sư không nói được sư phụ của tiểu nữ là ai thì đại sư phải nhận lời tiểu nữ không hành tội vị này nữa. Vô Sắc thiền sư hết sức ngạc nhiên, nghĩ thầm “Giác Viễn tính nết cổ hủ, mấy chục năm nay chuyên trông coi sách ở Tàng kinh các, không hề giao du với người ngoài, tại sao lại quen biết cô nàng này?” Nghĩ đoạn, liền đáp – Thực ra không ai hành tội Giác Viễn cả. Mọi tăng chúng bổn tự, hễ phạm giới luật, bất kể là ai, đều bị phạt cả; hơn nữa phạt như thế cũng không thể coi là hành tội. Quách Tương bĩu môi cười nhạt, nói – Hừ, nói đi nói lại, các vị cũng chỉ tìm cách biện hộ thôi. Vô Sắc thiền sư giơ song chưởng nói – Được, lão tăng chấp nhận. Nếu thua, lão tăng sẽ thay Giác Viễn sư đệ gánh ba ngàn một trăm lẻ tám gánh nước. Cô nương chú ý, lão tăng xuất chiêu đây! Trong lúc đối đáp với Vô Sắc, Quách Tương sớm đã tính thầm “Lão hòa thượng này nội công thâm hậu, võ công tất lợi hại. Nếu để lão động thủ trước, mình phải hết sức chống đỡ, ắt phải giở võ công của phụ mẫu ra. Chi bằng mình hãy chiếm tiên cơ, xuất liền mười chiêu”. Nghĩ tới đó đã nghe Vô Sắc nói “Cô nương chú ý, lão tăng xuất chiêu đây”, thế là nàng không đợi Vô Sắc xuất chưởng, liền vung đoản kiếm đâm thẳng tới ngực đối phương. Đây là chiêu “Vạn tử thiên hồng”[3] trong Lạc Anh kiếm pháp của Đào Hoa đảo, mũi kiếm trong lúc đâm cứ không ngừng di động, khiến đối thủ chẳng biết rốt cuộc mũi kiếm định nhắm vào đâu. Vô Sắc thiền sư biết thế công lợi hại, không dám đỡ, phải nhảy sang bên né tránh. Quách Tương quát – Chiêu thứ hai! Đoản kiếm thu về, rồi từ phía dưới xọc lên, đây là chiêu “Thiên thân đảo huyền”[4] của Toàn Chân kiếm pháp. Vô Sắc thiền sư nói – Khá lắm, đó là Toàn Chân kiếm pháp! Quách Tương đáp – Vị tất như thế! Đoản kiếm của nàng đâm không trúng, chỉ thấy Vô Sắc thiền sư chuyển từ thủ sang công, các ngón tay của thiền sư chộp tới cổ tay nàng thì kinh hãi nghĩ thầm “Lão hòa thượng quả lợi hại, trước kiếm chiêu hung hiểm như thế, chỉ tay không mà vẫn tấn công trở lại được”. Nàng thấy các ngón tay của đối phương tới trước mặt liền vội thi triển chiêu “Ác khuyển lan lộ” thuộc chữ Phong trong “Đả cẩu bổng pháp”. Nguyên hồi nhỏ nàng từng giao hảo với Lỗ Hữu Cước, bang chủ tiền nhiệm của Cái Bang. Cái Bang có luật lệ quy định, rằng Đả cẩu bổng pháp[5] là thần kỹ trấn bang, chỉ có bang chủ mới được truyền lại. Trong lúc trà dư tửu hậu, Lỗ Hữu Cước thường biểu diễn Đả cẩu bổng pháp, nhờ thế Quách Tương mới học lóm được vài chiêu thức. Huống hồ mẫu thân nàng là Hoàng Dung cũng từng làm bang chủ nhiệm kỳ trước; còn bang chủ đương nhiệm Gia Luật Tề là anh rể của nàng; nàng nhiều lần được thấy “Đả cẩu bổng pháp”, tuy không rõ quyết yếu của phép đó, nhưng sử một chiêu y chang cũng đủ khiến người ngoài kinh hãi. Ngón tay của Vô Sắc thiền sư vừa chạm cổ tay nàng, thì đột nhiên một đường bạch quang như tia chớp xẹt qua, mũi kiếm biến ảo thần diệu, suýt nữa tiện ngọt cả năm ngón tay của Vô Sắc thiền sư. May mà thiền sư võ công cao siêu, biến chiêu thần tốc, kịp thoái lui hai bước, chỉ nghe “soạt”, ống tay áo bên tả đã bị đoản kiếm lia đứt một mảnh dài. Vô Sắc thiền sư mặt biến sắc, lưng toát mồ hôi lạnh. Quách Tương đắc chí hỏi – Vừa rồi là kiếm pháp gì nào? Thực ra trong thiên hạ làm gì có thứ kiếm thuật đó, chẳng qua nàng học lóm được một chiêu trong Đả cẩu bổng pháp, đem ra sử dụng nửa thực nửa hư, khiến cho vị cao tăng lừng danh của Thiếu Lâm tự cũng phải ngẩn người không hiểu là kiếm pháp gì. Quách Tương nghĩ thầm “Mình chỉ cần thi triển tiếp vài chiêu của Đả cẩu bổng pháp là đánh bại lão hòa thượng kia; tiếc rằng mình nắm vững mỗi chiêu này thôi”. Không để Vô Sắc thiền sư kịp thở, thanh đoản kiếm đã lướt tới, thân hình nàng phiêu diêu như tiên nữ giáng trần, mũi kiếm cứ nhắm phía gối của thiền sư mà điểm lia lịa. Đây là chiêu “Tiểu viên nghệ cúc”[6] của Ngọc Nữ kiếm pháp mà nàng học được qua Tiểu Long Nữ. Ngọc Nữ kiếm pháp do nữ hiệp Lâm Chiêu Anh sáng tạo từ hồi xưa, chẳng những kiếm chiêu lợi hại, mà phong thái thoát tục, tư thế tao nhã, chúng tăng chưa từng gặp qua, ai nấy vừa kinh ngạc vừa thích thú. Nên biết Đạt Ma kiếm pháp, La Hán kiếm pháp của phái Thiếu Lâm đều thuộc loại cương mãnh, còn Ngọc Nữ kiếm pháp thì tuyệt tích giang hồ từ lâu, vốn có bản chất tương phản với kiếm thuật của phái Thiếu Lâm. Thực ra luận về kiếm pháp vị tất đã hơn được kiếm thuật của phái Thiếu Lâm, có điều là ngắm nó uyển chuyển mỹ lệ vô cùng, hệt như kinh Phật có câu “Dung nghi uyển mị, trang nghiêm hòa nhã, đoan chính khả hỉ, quan giả vô yếm”. Vô Sắc thiền sư thấy kiếm thuật này quá mỹ diệu, chỉ mong ngắm một lần nữa, bèn né người sang bên chờ nàng sử thêm một chiêu nữa. Kiếm chiêu của Quách Tương biến hóa, chỉ sang đông lại chém về tây, đoản kiếm rạch mấy đường nữa. Trương Quân Bảo đứng bên cạnh mà ngắm, đang ngẩn cả người, bỗng kêu “Ơ” một tiếng. Thì ra Quách Tương vừa sử chiêu “Tứ thông bát đạt” ba năm trước trên đỉnh Hoa Sơn Dương Quá đã truyền thụ cho Trương Quân Bảo. Lúc ấy Quách Tương đứng xem bên cạnh, bây giờ nàng đem ra sử dụng. Nhưng thứ Dương Quá truyền thụ là chưởng pháp, bây giờ Quách Tương biến thành kiếm pháp, uy lực tuy giảm đi mấy thành, song kiếm thuật kỳ diệu cũng đủ khiến Vô Sắc thiền sư kinh ngạc. Tính ra Quách Tương đã sử năm chiêu mà Vô Sắc thiền sư vẫn chưa nhận biết được lai lịch. Thời trẻ tung hoành trên giang hồ, lịch duyệt phong phú; mười mấy năm nay làm thủ tọa La Hán đường, càng có dịp nghiên cứu võ công của các môn phái, đem so sánh với võ công Thiếu Lâm tự, chọn lấy sở trường của các môn phái bổ khuyết cho sở đoản của bổn tự. Do đó Vô Sắc thiền sư tự tin rằng bất cứ cao nhân của môn phái nào chỉ sử vài chiêu là sẽ nhận ra lai lịch ngay. Vô Sắc thiền sư giao hẹn với Quách Tương mười chiêu là đã dự phòng quá dư rồi. Ai ngờ phụ mẫu, sư phụ và bằng hữu của Quách Tương đều là những đệ nhất cao thủ đương thời, nàng chỉ cần sử một chiêu trong võ công của mỗi người ấy rồi kết nối với nhau cũng đủ khiến Vô Sắc thiền sư hoa mắt, làm sao đoán ra nổi lai lịch. Sau bốn thức kiếm “Tứ thông bát đạt” của Quách Tương, Vô Sắc thiền sư nghĩ thầm “Nếu cứ để cô nương ấy xuất chiêu trước, chỉ e sẽ giở hết quái chiêu này quái chiêu nọ, thì đừng nói mười chiêu, sau cả trăm chiêu ta cũng chẳng thể nhận ra lai lịch. Bây giờ ta phải chủ động tấn công, buộc cô nương ấy sử dụng võ công bản môn chống đỡ mới ổn”. Nghĩ đoạn Vô Sắc thiền sư xoay người sang bên trái, dùng chiêu “Song quán nhĩ”, hổ khẩu của hai quyền đối xứng với nhau, vạch thành hình cánh cung, thay nhau công kích. Quách Tương thấy kình lực của thế quyền quá mạnh, không dám chống đỡ, vội xoay mình thoát ra khỏi phạm vi tấn công của hai quyền. Nguyên hồi trước ở đầm Hắc Long, nàng thấy cảnh Anh Cô đấu với Dương Quá, yếu không địch nổi mạnh, Anh Cô đã dùng “Nê thu công” thoái lui, nên lúc này nàng bắt chước y chang. Công lực và thân pháp của nàng đều không thể sánh với Anh Cô, nhưng Vô Sắc thiền sư hoàn toàn không định hạ sát nàng, để nàng nhẹ nhàng luồn ra. Vô Sắc thiền sư khen – Thân pháp khá lắm, hãy tiếp thêm chiêu này! Nói đoạn, tả chưởng xoay một vòng, khuỷu tay ở trước ngực, hổ khẩu hướng lên phía trên, chính là chiêu “Hoàng oanh lạc giá” trong Thiếu Lâm quyền. Vô Sắc thiền sư là đại sư võ học của Thiếu Lâm tự, thân phận không phải tầm thường, tuy am hiểu các loại võ công nhiều hơn hẳn Quách Tương; song mỗi chiêu thức sử dụng đều là võ công thuần chính của bổn tự. Các pho quyền của phái Thiếu Lâm quang minh chính đại, trông rất bình thường, không có gì lạ, nhưng luyện đến chỗ tinh thâm thì uy lực khôn cùng. Tả chưởng của Vô Sắc thiền sư vừa xoay một vòng, Quách Tương đã cảm thấy nửa thân mình phía trên của nàng nằm trong tầm khống chế của chưởng lực, vội quay cán kiếm, dùng kiếm thay ngón tay mà sử một chiêu “Nhất dương chỉ” học được của Võ Tu Văn, điểm tới ba huyệt Oản Cốt, Dương Cốc, Dưỡng Lão ở cổ tay Vô Sắc thiền sư. Phép điểm huyệt “Nhất dương chỉ” nàng mới học sơ sơ, nhưng thủ pháp dùng một ngón tay điểm ba huyệt lại chính là yếu quyết của nó. Võ công “Nhất dương chỉ” của Nhất Đăng đại sư lừng danh thiên hạ, Vô Sắc thiền sư dĩ nhiên nhận biết, thấy Quách Tương sử một chiêu thì ngạc nhiên lắm, vội thu tay biến chiêu. Thực ra, nếu Vô Sắc thiền sư không thu tay lại mà cứ để nàng điểm vào ba yếu huyệt, sẽ phát giác thứ “Nhất dương chỉ” mà nàng sử dụng là giả chứ đâu phải thật. Nhưng đôi bên đang giở toàn lực giao đấu, Vô Sắc thiền sư sao dám mạo hiểm để mất thanh danh một đời? Quách Tương cười to – Đại sư đã thấy lợi hại chưa? Vô Sắc thiền sư hừ một tiếng, đánh ra chiêu “Đơn phụng triều dương”[7], hai tay vung rộng lên cao rồi chém xuống, đoản kiếm trong tay Quách Tương không giữ được, bị rớt xuống đất. Quách Tương thừa biết đối phương không định tâm hạ sát nàng, nên dù bị rơi mất kiếm nàng cũng chẳng sợ, hai quyền giao nhau, như có như không, sử dụng thức thứ năm mươi tư “Diệu thủ không không” trong bảy mươi hai thức “Không Minh quyền” – kiệt tác của Chu Bá Thông. Không Minh quyền là do Chu Bá Thông sáng tạo, chưa hề lưu truyền trong giang hồ; Vô Sắc thiền sư dù uyên bác đến mấy cũng chẳng thể nhận biết, liền dùng chiêu “Thiên hoa thất tinh”, song chưởng vạch hình cánh cung, nhanh như chớp chặt xuống bàn tay Quách Tương; nếu nàng không xuất nội lực chống đỡ, bàn tay sẽ bị chặt gãy liền. Chiêu “Thiên hoa thất tinh” này của phái Thiếu Lâm tưởng chậm mà nhanh, tưởng nhẹ mà nặng, tuy là thức của Sấn Thiếu Lâm, nhưng kình lực lại xuất phát từ chỗ kỳ ảo của Thần hóa Thiếu Lâm. Bàn tay Quách Tương bị khống chế, nàng nghĩ thầm “Lẽ nào lão ta thực tâm đánh gãy bàn tay mình?”, bèn phẩy tay một cái, sử chiêu “Thiết bồ phiến thủ”, lấy chưởng đối chưởng, phản công tức thời. Chiêu này nàng học của Hoàn Nhan Bình là vợ của Võ Tu Văn, là tâm pháp mà Thiết Chưởng Thủy Thượng Phiêu Cừu Thiên Nhận truyền lại. Môn “Thiết Chưởng công” này được các phái chưởng pháp trong võ lâm tôn là đệ nhất cương mãnh, Vô Sắc thiền sư nghiên cứu chưởng pháp tinh thâm, chắc hẳn phải biết. Thấy nàng sử chiêu thiết chưởng quan yếu này, Vô Sắc thiền sư bất giác giật mình, vội thâu chưởng về, một là không muốn đả thương nàng, hai là quả cũng hơi ngán môn võ công ấy. Thiền sư là người trung hậu, thấy chiêu nào của Quách Tương cũng đều đại diện cho một môn phái, không ngờ một thiếu nữ chưa đầy hai mươi tuổi lại am hiểu nhiều môn võ công đến thế thì vội thu chưởng về, thoái lui nửa trượng. Quách Tương cười, nói to – Đây là chiêu thứ mười rồi, đại sư hãy xem tiểu nữ thuộc môn phái nào? Đoạn nàng giơ tả thủ, rướn người lên, hữu thủ đẩy thẳng vào dưới cằm của Vô Sắc thiền sư. Vô Sắc thiền sư và tăng chúng đứng xem bất giác cùng ồ lên kinh ngạc. Thì ra đây chính là chiêu “Khổ hải hồi đầu”, một chiêu trong La Hán quyền chính tông của phái Thiếu Lâm, chứ phái khác không hề có. Thủ pháp của chiêu này là tay trái nắm đỉnh đầu đối phương, tay phải tựa vào dưới cằm của địch thủ mà vặn đầu một cái, mạnh thì địch thủ gãy cổ, nhẹ cũng trật khớp xương, là một sát chiêu cực kỳ lợi hại. Vô Sắc thiền sư thấy nàng dám sử dụng chiêu thức La Hán quyền, thật chẳng khác gì kẻ đánh trống trước cửa nhà sấm, múa búa trước cửa Lỗ Ban, thiền sư vừa giận vừa buồn cười. Chiêu thức này thiền sư luyện thành thạo từ mấy chục năm trước, dù đang ngủ gật mà gặp chiêu này cũng có thể đối phó khỏi cần suy tính. Vô Sắc thiền sư liền né mình bước lên, tả thủ tạt ngang qua phía trước ngực Quách Tương, phẩy tay một cái đã chộp được vai bên hữu của nàng; hữu thủ nhanh như chớp vỗ vào gáy nàng. Chiêu này gọi là “Hiệp sơn siêu hải”, vốn là chiêu thức hóa giải chiêu “Khổ hải hồi đầu”, hai tay nhấc bổng địch thủ lên khỏi mặt đất. Đáng lẽ Quách Tương phải dùng thức “Bàn trửu”[8] đè khuỷu tay của Vô Sắc thiền sư thì vừa có thể thoát nạn, vừa có thể phản kích đối phương, nhưng thủ pháp của Vô Sắc thiền sư quá mau lẹ; trong nháy mắt thân hình nàng đã bị nhấc bổng lên, cả hai chân rời khỏi mặt đất thì còn làm gì được nữa; dĩ nhiên là nàng đã thua. Vô Sắc thiền sư tuy chế phục được Quách Tương, nhưng sực nghĩ “Nguy tai! Ta chỉ mải mê hơn thua, chẳng để ý nhận biết môn phái sư thừa của cô nương ấy. Trong mười chiêu, cô nương ấy sử dụng quyền pháp của mười môn phái khác nhau, mình biết nói sao đây? Không thể bảo cô nương thuộc phái Thiếu Lâm được!” Quách Tương cố giãy giụa, miệng la – Buông tiểu nữ ra đi! Bỗng nghe “keng” một tiếng, từ trong người nàng có một vật gì đó rơi xuống đất. Quách Tương lại kêu – Lão hòa thượng còn không biết xấu hổ mà buông tiểu nữ ra ư? Vô Sắc thiền sư là một cao tăng, coi chúng sinh đều bình đẳng, chẳng phân biệt nam nữ đã đành, ngay cả trâu bò heo chó cũng coi như nhau, liền cười nói – Lão tăng đáng tuổi tổ phụ của tiểu cô nương, có gì phải xấu hổ. Nói đoạn thiền sư hẩy nhẹ tay một cái, Quách Tương đã văng xa hơn hai trượng. Trận đấu vừa rồi Quách Tương tuy thua, nhưng qua mười chiêu mà Vô Sắc thiền sư rốt cuộc không nhận biết nàng thuộc môn phái nào, đang định mở miệng chịu thua, nhưng vừa cúi đầu chợt nhìn thấy dưới đất có một chùm vật gì đó màu đen, ngó kỹ thì ra hai vị La Hán bằng sắt đúc. Quách Tương đứng vững rồi, bèn hỏi – Đại sư đã chịu thua hay chưa? Vô Sắc thiền sư ngẩng lên, vui vẻ đáp – Lão tăng thua sao được? Lão tăng biết lệnh tôn là đại hiệp Quách Tĩnh, lệnh đường là nữ hiệp Hoàng Dung, Đào Hoa đảo Hoàng đảo chủ là ông ngoại của cô nương. Phương danh của Quách nhị tiểu thư là chữ Tương trong Tương Dương. Lệnh tôn học kiêm các vị tôn trưởng của Giang Nam thất quái, Đào Hoa đảo, Cửu chỉ thần cái và Toàn Chân phái. Quách nhị tiểu thư gia học uyên thâm, thân thủ quả nhiên bất phàm. Nghe Vô Sắc thiền sư nói ra vanh vách, Quách Tương tròn mắt cứng lưỡi, không nói được gì nghĩ thầm “Lão hòa thượng này hẳn là tà môn, mình sử mười chiêu lung tung mà lão ta vẫn nhận biết lai lịch của mình thì quái dị thật”. Vô Sắc thiền sư thấy nàng ngẩn người như kẻ mất hồn, liền tủm tỉm cười, cúi xuống nhặt đôi La Hán nhỏ bằng sắt lên, nói – Quách nhị cô nương, lão tăng không thể nói dối tiểu bối được, lão tăng nhận biết cô nương là nhờ đôi La Hán này. Dương đại hiệp thế nào, cô nương có gặp Dương đại hiệp hay không? Quách Tương chợt hiểu, liền vui mừng hỏi – Ồ, thì ra là Vô Sắc thiền sư, đôi La Hán này đại sư đã tặng tiểu nữ nhân dịp sinh nhật, cho nên đại sư nhận ra tiểu nữ! Chẳng hay đại sư có biết Dương đại ca và Long tỷ tỷ của tiểu nữ hiện ở đâu hay không? Tiểu nữ đến quý tự chính là để gặp đại sư, hỏi thăm tin tức hai người ấy, nghĩa là phu thê Dương đại hiệp ấy mà. Vô Sắc thiền sư đáp – Mấy năm trước Dương đại ca có tới thăm bổn tự và ở chơi vài ngày, rất hợp chuyện với lão tăng. Sau nghe tin Dương đại hiệp ở thành Tương Dương chống giặc; lão tăng theo lời kêu gọi của Dương đại hiệp, cũng từng tham gia chống ngoại xâm. Còn hiện giờ thì không biết Dương đại hiệp ở đâu. Quách Tương ngẩn người một lát, thở dài – Đại sư mà còn không rõ Dương đại hiệp đi đâu, thì ai biết nổi kia chứ? Rồi nàng định thần nói – Đại sư là hảo bằng hữu của Dương đại ca, hèn chi võ công cao minh như thế. À, tiểu nữ còn chưa đa tạ đại sư đã tặng quà sinh nhật, hôm nay tiện đây xin đa tạ! Vô Sắc thiền sư cười – Chúng ta đúng là đánh nhau bể đầu mới nhận họ. Khi nào có dịp gặp Dương đại hiệp, cô nương chớ có bảo lão tăng ỷ lớn bắt nạt tiểu cô nương nhé. Quách Tương ngước mắt nhìn mấy ngọn núi xa xa, lẩm bẩm một mình – Biết bao giờ mới gặp được đây? Lần sinh nhật năm Quách Tương mười sáu tuổi, Dương Quá bỗng nảy ra ý tưởng mới là viết thiếp mời đồng đạo giang hồ đến quây quần ở Tương Dương mừng sinh nhật nàng. Bấy giờ rất nhiều cao thủ võ lâm của Hắc – Bạch hai đạo đều nể mặt Dương Quá đến chúc mừng; ai không thể đến thì cũng cho người mang lễ vật quý giá tới tặng. Vô Sắc thiền sư nhờ người mang tặng cho nàng chính là đôi thiết La Hán tinh xảo này. Trong ruột đôi thiết La Hán có bố trí máy móc, mỗi khi lên dây là hai thiết La Hán lại đấu với nhau cả một pho La Hán quyền của phái Thiếu Lâm. Đôi thiết La Hán này do một vị kỳ tăng ở Thiếu Lâm tự hơn một trăm năm trước đã tốn bao tâm huyết sáng chế ra, thật vô cùng linh xảo tinh diệu. Quách Tương rất thích chơi món quà này, nàng luôn đem theo bên mình. Không ngờ vừa nãy nó từ trong túi rơi ra, nhờ đó Vô Sắc thiền sư nhận biết lai lịch của nàng. Chiêu thức quyền pháp Thiếu Lâm mà nàng sử dụng ban nãy cũng là học từ đôi thiết La Hán này. Vô Sắc thiền sư mỉm cười nói – Do quy củ nhiều đời của bổn tự, không thể mời Quách nhị cô nương vào chùa du ngoạn, xin cô nương lượng thứ. Quách Tương có vẻ buồn, đáp – Không có chi, việc tiểu nữ muốn biết thì cũng đã hỏi rồi. Vô Sắc thiền sư chỉ Giác Viễn, nói – Còn về việc của vị sư đệ này, thư thả lão tăng sẽ giải thích cho cô nương rõ. Bây giờ lão tăng sẽ cùng cô nương xuống núi, tìm một phạn điếm để lão tăng thực hiện nghĩa vụ đãi khách uống rượu cái đã, cô nương nghĩ sao? Địa vị của Vô Sắc thiền sư trong Thiếu Lâm tự rất cao, nay lại tỏ ý tôn kính một thiếu nữ tới mức thân chinh tiễn xuống núi và trịnh trọng khoản đãi, các tăng nhân nghe vậy hết thảy không khỏi kinh ngạc. Quách Tương đáp – Đại sư khỏi cần khách sáo. Tiểu nữ vừa rồi ra tay quá trớn, đắc tội với mấy vị đại sư, mong lão thiền sư xin lỗi giùm tiểu nữ. Giờ thì xin cáo biệt. Hậu hội hữu kỳ. Nói đoạn nàng vái chào rồi quay mình đi thẳng xuống núi. Vô Sắc thiền sư mỉm cười – Cô nương không cần lão tăng tiễn chân, lão tăng cũng cứ tiễn. Năm sinh nhật cô nương, lão tăng phụng mệnh Dương đại hiệp đi đốt kho lương thảo và thuốc súng của đại quân Mông Cổ ở Nam Dương, sau đó liền về bổn tự, không thể đến thành Tương Dương chúc mừng nên trong lòng áy náy không yên. Hôm nay cô nương quang lâm bổn tự, nếu không cung kính tiễn đưa ba mươi dặm, há là phải phép với quý khách? Quách Tương thấy thiền sư thật lòng, nói năng hào sảng, nàng cũng muốn kết bạn vong niên với ngài, bèn mỉm cười nói – Vậy mời thiền sư đi cùng! Hai người sánh vai xuống núi, sau khi ngang qua Nhất Lô đình, nghe có tiếng chân phía sau, nhìn lại thấy Trương Quân Bảo đi theo sau, nhưng cậu ta không dám đến gần. Quách Tương cười nói – Trương huynh đệ, huynh đệ cũng tiễn khách xuống núi phải không? Trương Quân Bảo đỏ mặt, khẽ đáp “Dạ!” Lúc đó, từ trên Thiếu Lâm tự có một tăng nhân thi triển khinh công chạy như bay xuống núi, dáng vẻ hết sức vội vã. Vô Sắc thiền sư cau mày, hỏi – Làm gì mà hấp tấp thế? Tăng nhân kia chạy tới bên Vô Sắc thiền sư, hành lễ, nói nhỏ mấy câu. Vô Sắc thiền sư mặt biến sắc, nói lớn – Có chuyện như thế được sao? Tăng nhân kia đáp nói – Lão Phương trượng mời Thủ tọa về nghị sự ạ. Quách Tương nhìn thần sắc của thiền sư liền biết là Thiếu Lâm tự có việc nghiêm trọng, nói – Lão thiền sư, bằng hữu tương giao quý ở chỗ tri tâm, đâu cần giữ lễ khách sáo. Lão thiền sư có việc cần kíp, xin cứ quay về quý tự. Dịp khác hữu duyên tương ngộ trên giang hồ, chúng ta sẽ uống rượu luận võ thỏa chí. Vô Sắc thiền sư cả mừng – Thảo nào Dương đại hiệp quý trọng cô nương cũng phải. Cô nương quả là anh hiệp trong nhân quần, trượng phu trong nữ lưu, lão tăng vui lòng kết bạn với cô nương. Quách Tương mỉm cười – Thiền sư là bằng hữu của Dương đại ca thì đã là bằng hữu của tiểu nữ từ sớm rồi còn gì. Đoạn hai người cáo biệt nhau, Vô Sắc thiền sư trở lên Thiếu Lâm tự. Quách Tương tiếp tục xuống núi. Trương Quân Bảo theo sau nàng, cách dăm sáu bước, không dám sánh vai đi ngang hàng. Quách Tương hỏi – Trương huynh đệ, vì sao các tăng nhân lại hành hạ sư phụ của huynh đệ như thế? Sư phụ của huynh đệ nội công thâm hậu, sợ gì bọn họ kia chứ? Trương Quân Bảo tới gần hai bước, nói – Giới luật Thiếu Lâm tự rất nghiêm khắc, tăng chúng hễ phạm lỗi đều bị phạt, chứ không phải có ai cố ý hà hiếp sư phụ đâu. Quách Tương ngạc nhiên – Sư phụ của huynh đệ là bậc chính nhân quân tử, thiên hạ chưa thấy ai tốt như thế, người đã phạm lỗi gì vậy? Ta nghĩ chắc sư phụ của huynh đệ chịu phạt thay cho ai đó, chứ người như thế còn phạm lỗi gì nữa. Trương Quân Bảo nói – Nguyên ủy của việc này thực ra cô nương cũng biết đấy, tất cả chỉ bởi bộ kinh Lăng Già. Quách Tương hỏi – Ồ, là bộ kinh bị hai tên Tiêu Tương Tử và Doãn Khắc Tây lấy trộm ấy à? Trương Quân Bảo đáp – Phải. Hôm ấy trên đỉnh Hoa Sơn tiểu đệ được Dương đại hiệp chỉ giáo, chính tiểu đệ đã tự tay lục xét toàn thân hai kẻ đó, sau khi xuống núi thì không còn thấy tung tích của chúng đâu nữa. Hai thầy trò tiểu đệ đành trở về bẩm báo lão Phương trượng. Bộ kinh Lăng Già có bút tích của Đạt Ma tổ sư, Thủ tọa Giới luật đường khiển trách sư phụ tiểu đệ trông coi không cẩn thận, để mất bộ kinh vô giá đó nên mới phạt nặng như vậy. Phạt thế là đáng tội mà. Quách Tương thở dài một tiếng, nói – Chẳng qua sư phụ của đệ gặp vận xui, chứ không thể bảo là đáng tội được. Nàng chỉ lớn hơn Trương Quân Bảo vài tuổi, nhưng nghiễm nhiên tự coi mình là bề trên, lại hỏi – Vì vụ ấy mà phạt không cho sư phụ của đệ nói năng hay sao? Trương Quân Bảo đáp – Đó là giới luật truyền từ nhiều đời của bổn tự. Kẻ phạm lỗi phải đeo xiềng gánh nước, không được nói chuyện. Tiểu đệ nghe các lão thiền sư bổn tự bảo rằng tuy gọi là xử phạt, nhưng rất có ích cho kẻ bị phạt một người không nói năng gì thì tu luyện càng dễ tăng tiến; còn bị xiềng mà gánh nước cũng là dịp tốt để rèn luyện thể phách. Quách Tương cười – Nói thế chẳng hóa ra sư phụ của đệ không hề bị phạt mà đang luyện võ công, còn ta chính là kẻ đa sự. Trương Quân Bảo vội biện bạch – Hảo tâm của cô nương, sư đồ tiểu đệ vô cùng cảm kích, vĩnh viễn không quên. Quách Tương khe khẽ thở dài, nhủ thầm – “Nhưng có người hẳn đã quên ta rồi”. Bỗng nghe có tiếng lừa kêu trong rừng cây. Chính là con lừa xanh của nàng đang gặm cỏ. Quách Tương nói – Trương đệ, đệ cũng khỏi cần tiễn tỷ nữa. Đoạn nàng huýt một tiếng sáo miệng gọi con lừa xanh tới trước mặt. Trương Quân Bảo có vẻ quyến luyến, song chưa biết nói thế nào. Quách Tương đưa đôi thiết La Hán đang cầm trong tay cho cậu – Tặng cho đệ đấy. Trương Quân Bảo ngơ ngác, không dám giơ tay nhận, miệng ấp úng – Cái… cái này… Quách Tương nói – Đã bảo là tặng đệ thì đệ cứ nhận lấy. Trương Quân Bảo nói – Đệ… tiểu đệ… Quách Tương liền nhét đôi thiết La Hán vào tay cậu, rồi nhảy lên lưng lừa. Đột nhiên từ trên bậc đá lát đường sườn núi có tiếng người gọi vọng xuống – Quách nhị cô nương, hãy tạm dừng bước. Chính là Vô Sắc thiền sư vừa từ Thiếu Lâm tự chạy ra. Quách Tương nghĩ thầm “Lão hòa thượng này cũng đa lễ thật, hà tất cứ phải tiễn mình mới được?” Vô Sắc thiền sư đi rất nhanh, chỉ giây lát đã đuổi kịp Quách Tương. Thiền sư nói với Trương Quân Bảo – Ngươi hãy hồi tự, đừng đi lung tung trong rừng nữa. Trương Quân Bảo cung thân vâng lệnh, nhìn Quách Tương một cái rồi đi lên núi. Đợi cậu đi rồi, Vô Sắc thiền sư lấy trong tay áo ra một mảnh giấy nói – Quách nhị cô nương, cô nương có biết ai viết giấy này chăng? Quách Tương nhảy xuống khỏi lưng lừa, cầm lấy mảnh giấy, thấy trên đó viết hai hàng chữ đậm, mực vẫn chưa ráo hẳn “Võ công phái Thiếu Lâm, xưng hùng Trung nguyên, Tây Vực nhiều năm, Côn Luân Tam Thánh ít hôm nữa sẽ tới liều chết lĩnh giáo”. Nét bút rất phóng khoáng và cứng cát. Quách Tương hỏi – Côn Luân Tam Thánh là ai vậy? Xem ra khẩu khí của ba người này khá ngông cuồng. Vô Sắc thiền sư nói – Thì ra cô nương cũng không quen biết họ. Quách Tương lắc đầu – Chẳng những không quen biết, mà ngay mấy chữ Côn Luân Tam Thánh tiểu nữ cũng chưa nghe phụ mẫu nhắc bao giờ. Vô Sắc thiền sư nói – Thế thì lạ thật! Quách Tương hỏi – Có gì lạ kia ạ? Vô Sắc thiền sư nói – Lão tăng và cô nương tuy gặp nhau lần đầu, nhưng lão tăng coi cô nương như chỗ thân tình, có thể nói thật cho cô nương hay. Cô nương có biết mảnh giấy này tìm thấy ở đâu không? Quách Tương nói – Côn Luân Tam Thánh sai người mang đến phải không ạ? Vô Sắc thiền sư đáp – Nếu họ sai người mang đến thì không có gì lạ. Tục ngữ có câu “Cây cao chịu gió lớn”. Thiếu Lâm tự mấy trăm năm nay được coi là nguồn gốc võ lâm thiên hạ, cho nên liên tiếp có các bậc cao thủ đến chùa đòi tỷ võ tranh tài. Lần nào có người đến đòi so sánh tài nghệ, bổn tự cũng khoản đãi tử tế, cố tìm cách thoái thác, né tránh việc tỷ thí. Những người tu hành chú trọng tránh né sân si hỷ nộ, đâu muốn trình cường tranh thắng. Nếu ngày ngày chỉ lo tỷ thí với mọi người, còn gọi là đệ tử của Phật môn ư? Quách Tương gật đầu – Lão thiền sư nói chí phải. Vô Sắc thiền sư nói tiếp – Có điều là các võ sư đã tới bổn tự, nếu không thi thố vài miếng võ tất không cam chịu. La Hán đường của Thiếu Lâm tự phải chuyên trách cái việc tiếp các võ sư từ bên ngoài tới. Quách Tương cười – Thế ra lão thiền sư phải chuyên trách cái vụ đánh nhau với người ngoài. Vô Sắc thiền sư gượng cười – Nhìn chung các võ sư tới, dù võ công tài giỏi mấy, đệ tử của bổn đường cũng đủ khả năng đối phó, khỏi cần lão tăng phải ra tay. Riêng bữa nay thấy cô nương thân thủ bất phàm, lão tăng mới đứng ra đấu thử. Quách Tương cười – Lão thiền sư coi trọng tiểu nữ quá rồi. Vô Sắc thiền sư nói – Chà, lão tăng càng nói càng xa đề! Chẳng giấu gì cô nương, mảnh giấy này được lấy xuống từ bàn tay tượng Phật Giáng Long trong La Hán đường. Quách Tương hỏi – Ai đã gài nó vào bàn tay tượng Phật? Vô Sắc thiền sư gãi đầu – Nào có biết. Thiếu Lâm tự đến mấy trăm tăng nhân, nếu có người lạ lẻn vào chùa, lẽ nào không ai phát hiện? Riêng La Hán đường luôn luôn có tám đệ tử luân phiên canh gác suốt ngày đêm. Vừa rồi có người phát hiện mảnh giấy này, vội phi báo với Phương trượng, ai nấy cho là kỳ quái nên mới triệu lão tăng về nghị sự. Quách Tương nghe tới đây, đã hiểu ý của Vô Sắc thiền sư, bèn nói – Có phải lão thiền sư nghi tiểu nữ thông đồng với Côn Luân Tam Thánh, tiểu nữ ở bên ngoài quấy nhiễu để ba kẻ kia lẻn vào La Hán đường gài mảnh giấy này, phải vậy không? Vô Sắc thiền sư nói – Lão tăng đã gặp cô nương, dĩ nhiên không chút nghi ngờ. Nhưng có một sự trùng hợp là cô nương vừa rời khỏi bổn tự, thì người ta phát hiện ra mảnh giấy này trong La Hán đường. Phương trượng và Vô Tướng thiền sư không thể không nghi cho cô nương. Quách Tương nói – Tiểu nữ không hề quen biết ba kẻ nọ. Lão thiền sư sợ gì kia chứ? Mươi ngày sau nếu chúng cả gan kéo đến, cứ tỷ thí với chúng một phen xem ai hơn ai kém là xong. Vô Sắc thiền sư nói – Sợ gì, dĩ nhiên là không sợ gì. Nếu cô nương không liên can gì tới chúng thì lão tăng khỏi cần lo ngại. Quách Tương hiểu rằng Vô Sắc thiền sư có hảo ý, lo ngại Côn Luân Tam Thánh có quen biết với nàng, khi giao đấu sẽ phải giữ ý giữ tứ để khỏi đắc tội với bằng hữu, nàng bèn nói – Lão thiền sư, nếu bọn chúng thực tình muốn nghiên cứu võ công với quý tự thì thôi, bằng không lão thiền sư cứ giã cho chúng một trận nên thân. Cứ xem khẩu khí qua mảnh giấy này đủ thấy bọn chúng ngông cuồng lắm. Thế nào là “liều chết lĩnh giáo”? Chẳng lẽ Thiếu Lâm tự có bảy mươi hai tuyệt kỹ võ nghệ, bọn chúng đều muốn “liều chết lĩnh giáo” cả hay sao? Nói đến đây, như chợt nghĩ ra việc gì, nàng tiếp – Không chừng trong quý tự có kẻ thông đồng với bọn chúng mà lén gài mảnh giấy này vào bàn tay tượng Phật cũng nên. Vô Sắc thiền sư nói – Điều này các lão tăng cũng đã tính đến, nhưng chắc chắn bổn tự không có kẻ phản trắc như thế. Bàn tay của Phật Giáng Long La Hán ở trên cao, cách mặt đất hơn ba trượng, ngày thường quét bụi đều phải kê giá leo lên. Hiếm người có tài khinh công đủ nhảy cao tới đó. Bổn tự dù có kẻ phản nghịch chăng nữa, hắn cũng không thể tài giỏi như vậy. Lòng hiếu kỳ của Quách Tương trỗi dậy, nàng rất muốn gặp mặt xem Côn Luân Tam Thánh rốt cuộc là các nhân vật thế nào, muốn xem bọn chúng tỷ thí võ nghệ với các tăng nhân Thiếu Lâm tự, xem ai thắng ai bại. Nhưng Thiếu Lâm tự có lệ không tiếp đãi nữ khách, xem ra nàng chẳng thể chứng kiến trận tỷ thí ngoạn mục kia. Vô Sắc thiền sư thấy nàng cúi đầu trầm tư, tưởng nàng đang nghĩ kế hộ Thiếu Lâm tự, bèn nói – Một ngàn năm nay Thiếu Lâm tự từng trải qua bao phong ba bão tố mà vẫn bình yên. Nay nếu Côn Luân Tam Thánh cố ý gây khó dễ, họ sẽ biết thế nào là uy phong của Thiếu Lâm tự. Quách cô nương, nửa tháng nữa trên giang hồ cô nương hãy lắng nghe tin tức, xem Côn Luân Tam Thánh có làm gì nổi Thiếu Lâm tự hay không. Nói tới đây, Vô Sắc thiền sư bỗng trở nên bừng bừng hào sảng như hồi tráng niên. Quách Tương mỉm cười nói – Ban nãy lão thiền sư vừa bảo còn sân si hỷ nộ thì không phải là đệ tử Phật môn kia mà? Được rồi, nửa tháng sau tiểu nữ sẽ chờ nghe tin mừng. Đoạn nàng quay người nhảy lên lưng lừa, hai người nhìn nhau cùng mỉm cười. Quách Tương giục con lừa xanh đi thẳng xuống núi, lòng đinh ninh thể nào cũng phải tìm cách mục kích cuộc nhiệt náo sắp tới cho bằng được. Nàng nghĩ thầm “Mình phải tìm một cách thật hoàn hảo để mươi ngày sau trà trộn vào Thiếu Lâm tự thưởng thức trận đấu ngoạn mục kia mới được”. Lại nghĩ “Chỉ e Côn Luân Tam Thánh không có chân tài thực học, chưa chi đã bị các vị hòa thượng đánh bại thì cuộc nhiệt náo bất thành. Giả như bọn chúng có được nửa bản lĩnh của ông ngoại, của phụ thân hoặc của đại ca, thì sự kiện “Côn Luân Tam Thánh đại náo Thiếu Lâm tự” mới đáng xem”. Nghĩ tới Dương Quá, nàng lại ấm ấm ức ức. Ba năm nay Quách Tương tìm kiếm chàng khắp nơi, nhưng hình bóng chàng vẫn biền biệt. Núi Chung Nam cổ mộ từng dãy, lũng Vạn Hoa muôn đóa rời cành, Tuyệt Tình cốc vắng vẻ tịch mịch, bến Phong Lăng ánh nguyệt lạnh lùng. Nàng đã bao lần tự nhủ “Thực ra, dù ta tìm thấy chàng, thì cũng có nghĩa lý gì đâu? Hay chỉ nặng thêm mối tương tư, sầu não? Chàng sở dĩ lánh đi thật xa có lẽ chỉ cốt cho ta đỡ đau khổ cũng nên. Vốn biết chỉ là hoa trong gương, trăng dưới nước, hoàn toàn ảo ảnh, chẳng hiểu sao ta vẫn cứ nhớ nhung, tìm kiếm”. Nàng để mặc con lừa xanh muốn đưa tới đâu thì tới, cứ thẩn tha trong núi Thiếu Thất, đi mãi về hướng tây, đã vào địa giới Tung Sơn, nhìn lại đỉnh núi Đông của núi Thiếu Thất chỉ thấy nó cao chót vót, dọc đường phong cảnh khá đẹp, ngắm không chán mắt. Cứ thế ngao du mấy hôm thì tới Tam Hưu đài, nàng nghĩ thầm “Tam Hưu, Tam Hưu! Tại sao chỉ có Tam Hưu? Đời người có hàng ngàn hàng vạn Hưu, há chỉ có Tam Hưu?” Nàng rẽ sang hướng bắc, qua một đỉnh núi, chỉ thấy có tới hơn ba trăm cây bách cổ thụ cao vút, rễ quấn quýt bên dưới, lá kết hoa trên ngọn, sáng đẹp cả một vùng. Nàng đang mải ngắm cảnh, bỗng nghe từ phía sau thung lũng văng vẳng tiếng đàn vọng lại, ngạc nhiên nghĩ thầm “Giữa chốn hoang vu này lại có cao nhân nhã sĩ nào tới đây dạo đàn nhỉ”. Từ nhỏ nàng đã được mẫu thân giáo huấn, cầm kỳ thi họa môn gì cũng am hiểu, tuy chưa tinh thông nhưng nhờ bẩm tính thông tuệ, lại ưa tìm tòi phát hiện, nên khi đàm luận với mẫu thân về đàn, về sách, nàng thường đưa ra những kiến giải độc đáo, những phát hiện mới mẻ. Lúc này nghe thấy tiếng đàn, lòng hiếu kỳ trỗi dậy, nàng bèn xuống lừa, đi tìm về phía tiếng đàn. Đi hơn chục trượng, thoạt nghe trong tiếng đàn có lẫn vô số tiếng chim; nhưng khi lắng nghe mới hay tiếng đàn và tiếng chim như đang ứng đáp, phối hợp tiết tấu với nhau hết sức ăn ý. Quách Tương nấp sau một bụi hoa, đưa mắt về phía phát ra tiếng đàn, thì thấy dưới gốc ba cây thông lớn có một bạch y nam tử ngồi quay lưng về phía nàng, cây tiêu vĩ cầm đặt trên gối, đang gảy đàn. Trên các cành cây xung quanh chàng ta có vô số loài chim như hoàng oanh, đỗ quyên, hỷ thước, sơn ca, sáo sậu, và nhiều giống chim không rõ tên hoặc đang đối đáp, hoặc hòa tấu cùng tiếng đàn. Quách Tương nghĩ thầm “Mẫu thân kể rằng trong các nhạc khúc có khúc “Không sơn điểu ngữ” bị thất truyền từ lâu, chẳng lẽ chính là khúc này?” Nàng nghe một lát, thấy tiếng đàn lên cao dần, tới mức bầy chim không kêu hót nữa; trên không trung bỗng tràn ngập tiếng chim vỗ cánh, từ bốn phía đông tây nam bắc cơ man nào là chim bay đến hoặc tụ tập trên các cành cây, hoặc bay lượn xập xòe khoe những bộ lông ngũ sắc, cứ y như một kỳ quan. Tiếng đàn trung chính bình hòa, cho thấy người gảy đàn có phong thái của bậc vương giả. Quách Tương kinh ngạc nghĩ thầm “Người kia dùng tiếng đàn mà quy tụ được ngần ấy chim muông, chẳng lẽ vừa rồi là nhạc khúc Bách điểu triều phụng’? Chỉ tiếc ông ngoại không có ở đây, chứ không thì cây ngọc tiêu thiên hạ vô song của ông ngoại hòa với tiếng đàn người kia sẽ tuyệt diệu vô cùng”. Người kia gảy tới khúc cuối, tiếng đàn thấp dần, bầy chim trên cây cùng nhau cất cánh bay lượn. Chợt “keng” một tiếng, tiếng đàn im bặt, chim muông dần dần bay tản đi. Người kia tiện tay gảy vài âm ngắn, rồi ngửa mặt lên trời thở dài – Ôm trường kiếm, ngước nhìn trời, kìa nước xanh, nọ đá trắng, sao chẳng ở bên nhau! Thế gian không có tri âm tri kỷ, dù sống ngàn năm phỏng ích gì? Nói đến đây, người nọ đột nhiên rút từ bên dưới cây đàn ra một thanh trường kiếm, chỉ thấy một đạo thanh quang lóe lên trong bóng cây. Quách Tương nghĩ thầm “Thì ra người này văn võ toàn tài, không rõ kiếm pháp của y như thế nào?” Người kia thong thả bước tới khoảng đất trống trước cây thông cổ thụ, dùng mũi kiếm vạch xuống đất các đường ngang dọc. Quách Tương ngạc nhiên nghĩ thầm “Thế gian sao lại có thứ kiếm pháp quái lạ như vậy? Lẽ nào vạch mũi kiếm loạn xạ trên mặt đất là có thể thắng địch thủ được sao? Người này thật kỳ dị, khó đoán biết!” Thử để ý chiêu thức, thấy chàng ta vạch ngang mười chín đường, rồi chuyển sang vạch dọc cũng mười chín đường; kiếm chiêu trước sau không thay đổi, toàn là vạch đường thẳng. Quách Tương dựa theo kiếm thế, dùng tay vạch theo trên mặt đất, suýt cười thành tiếng, thì ra có phải kiếm pháp kỳ quái gì đâu, chẳng qua chàng ta dùng mũi kiếm vẽ một bàn cờ, ngang dọc mỗi chiều mười chín đường. Vẽ bàn cờ xong, chàng ta dùng mũi kiếm vẽ một vòng tròn ở phía trên góc trái và phía dưới góc phải, vạch dấu chữ X phía trên góc phải và phía dưới góc trái. Quách Tương đã thấy rõ đó là bàn cờ vây, những vòng tròn là quân trắng, dấu X là quân đen. Đoạn chàng ta khuyên một vòng tròn nữa ở phía trên góc trái, cách vòng tròn ban đầu ba ô, còn bên dưới vòng tròn hai ô thì vạch một dấu X. Khi chàng ta đặt đến quân cờ thứ mười chín thì chống mũi kiếm, cúi đầu suy tư, chưa quyết định nên thí quân lấy thế, hay là tranh lực ở góc bàn cờ. Quách Tương nghĩ thầm “Hóa ra người kia cũng cô đơn lẻ bóng như ta, ngồi gảy đàn chốn núi hoang, lấy chim muông làm tri âm, đánh cờ không đối thủ, đành tự đấu với mình vậy”. Người kia nghĩ một lát, quân trắng chưa chịu thua, đang triển khai kịch chiến với quân đen ở góc trái; đôi bên tranh giành ngang ngửa, từ bắc xuống nam, dần dần tới vùng Trung nguyên là giữa bàn cờ. Quách Tương chăm chú theo dõi, cứ bước tới mỗi lúc một gần, thấy quân trắng ở thế thua, trước sau luôn luôn bị lép vế, đến nước thứ chín mươi ba thì gặp thế công liên hoàn của quân đen, đã vô cùng nguy cấp, song chàng ta vẫn cố chống chọi. Tục ngữ có câu “Cờ ngoài bài trong”. Quách Tương tuy không cao cờ, nhưng cũng nhận ra, nếu quân trắng không chịu thí quân thì khó tránh toàn quân ở Trung nguyên bị tiêu diệt; nàng không nhịn được, bèn buột miệng nói to – Sao không bỏ Trung nguyên mà giành lấy Tây Vực? Người kia rùng mình, thấy ở mé tây bàn cờ có một khoảng trống rộng lớn, nếu nhân lúc này đặt luôn hai quân chiếm lấy, thì dù có bỏ mảng giữa, cũng vẫn duy trì được cục diện bất phân thắng bại. Người kia được Quách Tương mách nước, ngửa mặt lên trời cả cười, miệng nói – Hay, hay lắm! Đoạn đi tiếp vài nước, mới sực nhớ có người lạ ở bên cạnh, bèn quẳng kiếm xuống đất, quay người lại hỏi – Tại hạ đa tạ vị cao nhân nào vừa chỉ giáo? Rồi chàng ta hướng về phía Quách Tương ẩn núp mà vái một vái. Quách Tương thấy người kia mặt dài, mắt sâu, má hõm, trạc ba mươi tuổi. Tính nàng vốn phóng khoáng, chẳng câu nệ nam nữ, liền từ phía sau bụi cây bước ra, cười nói – Vừa rồi được nghe tiên sinh tấu khúc nhạc “Không sơn điểu ngữ” khiến chim muông quây quần, tiểu nữ thật thán phục! Sau lại thấy tiên sinh vẽ bàn cờ trên mặt đất, tự đấu cờ tài tình, tiểu nữ đứng ngoài xem không nhịn nổi mới lên tiếng xen vô, mong tiên sinh lượng thứ. Người kia thấy Quách Tương là một thiếu nữ thì quá ngạc nhiên, nhưng nghe nàng ca ngợi tiếng đàn liền cao hứng đáp lại – Cô nương thông hiểu nhạc lý, liệu có thể cho tại hạ thưởng thức vài bản đàn hay chăng? Quách Tương cười nói – Tiểu nữ tuy có được thân mẫu dạy đàn, song không thể so với tuyệt kỹ thần kỳ của tiên sinh. Có điều tiểu nữ đã được nghe diệu khúc của tiên sinh, mà không hồi đáp thì e thất lễ quá. Vậy tiểu nữ xin gảy một bài, chỉ mong tiên sinh đừng cười. Người kia nói – Đâu dám. Đoạn dùng cả hai tay nâng cây đàn đến trước mặt Quách Tương. Quách Tương thấy cây đàn rất cổ, có nhiều vết rạn nứt; nàng lên dây, dạo thử vài tiếng, rồi gảy khúc “Khảo bàn”. Thủ pháp của nàng dĩ nhiên không có gì kỳ diệu, nhưng người kia nghe đàn với vẻ mặt ngạc nhiên xen lẫn vui mừng. Thì ra khúc nhạc này xuất xứ từ một bài thơ trong Kinh Thi, ca ngợi bậc ẩn sĩ, đại ý là có một đấng trượng phu ngao du sơn thủy, bên dòng suối vắng, đơn độc một mình, dáng vẻ tiều tụy, nhưng chí hướng cao khiết thì không bao giờ thay đổi. Người kia nghe tiếng đàn diễn tả đúng tâm sự của mình liền cảm kích vô cùng; tiếng đàn đã dứt mà chàng ta vẫn cứ đứng ngây ra đó. Quách Tương đặt nhẹ cây đàn xuống, quay mình rời khỏi chốn này, vừa cất tiếng ca bài Kinh Thi vừa rồi, vừa vẫy con lừa xanh tới, nàng lại cưỡi lừa đi tiếp vào rừng sâu. Ba năm lang thang đây đó trên giang hồ, nàng từng gặp biết bao nhiêu điều kỳ dị, chuyện người kia gảy đàn rủ chim, vạch bàn cờ tự đấu cũng chỉ như cánh bèo tụ tán, nhanh chóng thoảng qua, chẳng còn dấu vết. Hai ngày sau, bấm đốt ngón tay, nàng nhớ từ hôm rời Thiếu Lâm tự đến nay đã mười ngày, đã gần tới thời gian Côn Luân Tam Thánh hẹn ước tỷ thí võ nghệ với chúng tăng Thiếu Lâm tự. Quách Tương chưa biết làm cách thế nào lẻn vào trong chùa xem cuộc nhiệt náo, nghĩ thầm “Mẫu thân ta gặp việc gì cũng chỉ cau mày một cái là nghĩ ngay ra mười mấy diệu kế, mình thì quá ngu xuẩn, một kế tính mãi cũng chẳng xong. Thôi được, dẫu sao bây giờ mình hãy cứ đến bên ngoài Thiếu Lâm tự xem rồi liệu sau. Không chừng các tăng nhân mải lo đối phó với kẻ địch mà quên cả việc ngăn cản ta vào chùa cũng nên”. Nàng ăn qua loa chút lương khô, rồi cưỡi con lừa xanh đi về phía Thiếu Lâm tự. Cách chùa mươi dặm, chợt nghe tiếng vó ngựa; trên con đường núi bên trái có ba người phóng ngựa tới. Ba con ngựa ấy phi rất nhanh, thoáng một cái đã lướt qua chỗ Quách Tương, thẳng về phía Thiếu Lâm tự. Ba người cưỡi ngựa đều trạc ngũ tuần, bận y phục ngắn màu xanh, treo túi binh khí trên yên. Quách Tương liền nghĩ thầm “Ba lão kia đều có võ công, dám mang binh khí tới chùa, hẳn là Côn Luân Tam Thánh. Mình mà đến chậm một bước, chỉ e lỡ mất dịp may”. Nghĩ đoạn nàng đét mạnh vào mông con lừa, nó ngẩng cao đầu hí một tiếng dài, phóng vội theo ba con ngựa. Ba lão già cưỡi ngựa luôn tay vung roi giục ngựa; ba con ngựa tung vó lao nhanh, loáng một cái đã bỏ xa con lừa của Quách Tương. Một lão già ngoảnh nhìn lại, vẻ mặt hơi lạ. Quách Tương thúc lừa đuổi theo hai, ba dặm nữa thì mất hút nhóm kỵ sĩ kia. Con lừa xanh của nàng sau một hồi gắng sức đã thở phì phò gấp gáp, có vẻ sắp kiệt sức. Quách Tương quát to – Con súc sinh vô dụng này, ngày thường chẳng vội thì cứ giở quẻ phóng nhanh; đến lúc bổn cô nương cần mi phóng thật nhanh thì mi chạy chậm như rùa. Thấy thúc nó cũng chẳng xong, nàng bèn xuống lừa, vào một thạch đình bên đường ngồi nghỉ đôi chút, cho con lừa uống nước suối cạnh đó. Lát sau, bỗng nghe tiếng vó ngựa, thì ra ba lão già lúc nãy phi ngựa trở lại. Quách Tương ngạc nhiên quá đỗi, nghĩ thầm “Tại sao họ phi ngựa trở lại, chẳng lẽ họ không chịu nổi vài đòn?” Ba người kia phóng thẳng vào thạch đình, cùng nhảy xuống ngựa. Quách Tương bây giờ có dịp nhìn kỹ họ. Một lão lùn mặt đỏ như chu sa, mũi cũng đỏ choét, miệng tủm tỉm cười, trông hòa nhã dễ mến; lão thứ hai cao như sếu vườn, mặt xanh tái, tựa hồ quanh năm suốt tháng không ra nắng. Hai lão già kia thân hình và diện mạo hoàn toàn tương phản nhau; còn lão thứ ba tướng mạo bình thường, nhưng sắc mặt vàng khè như kẻ có bệnh. Quách Tương nổi lòng hiếu kỳ, lên tiếng hỏi – Ba vị lão tiên sinh đã tới Thiếu Lâm tự hay chưa? Tại sao vừa mới lên đó đã quay trở xuống? Lão mặt xanh lườm nàng một cái, tựa hồ trách cứ nàng dám lục vấn lung tung. Lão lùn mặt hồng mũi đỏ cười hỏi lại – Sao cô nương biết bọn ta đến Thiếu Lâm tự? Quách Tương nói – Có mỗi con đường này, không đến Thiếu Lâm tự thì còn đi đâu kia chứ? Lão lùn nói – Cô nương nói không sai, thế còn cô nương định đi đâu? Quách Tương đáp nói – Các vị đến Thiếu Lâm tự, tiểu nữ cũng đến Thiếu Lâm tự. Lão mặt xanh nói – Thiếu Lâm tự xưa nay không cho phép nữ lưu đến đó và cũng cấm người ngoài mang khí giới vào chùa. Giọng nói của lão rất ngạo mạn, thân hình lại quá cao, nên lúc nói ánh mắt lão nhìn qua đầu chứ không phải nhìn vào mặt Quách Tương. Quách Tương khó chịu nói – Thế sao các vị lại mang theo khí giới? Cái túi đeo bên yên ngựa kia chẳng phải đựng khí giới đó sao? Lão mặt xanh lạnh lùng đáp – Ngươi làm sao có thể so bì với bọn ta? Quách Tương cười nhạt – Ba vị thì hơn nỗi gì? Hơn ở sự ngang ngạnh chăng? Côn Luân Tam Thánh đã tỷ thí với các hòa thượng Thiếu Lâm tự hay chưa? Ai thắng ai bại vậy? Ba lão già nghe vậy hơi biến sắc. Lão mặt đỏ hỏi – Tiểu cô nương, tại sao ngươi biết chuyện Côn Luân Tam Thánh? Quách Tương đáp – Thì tự nhiên biết thôi! Lão mặt xanh bỗng tiến một bước, quát hỏi – Tên họ mi là gì? Môn hạ của ai? Đến Thiếu Lâm tự làm gì? Quách Tương trừng mắt nói – Không liên can tới ngươi. Lão mặt xanh tức giận, giơ tay lên định cho nàng một cái tát, nhưng sực nghĩ mình cậy lớn hiếp nhỏ, cậy nam khinh nữ chẳng hay hớm gì; hơn nữa thân phận cao quý sao lại đi dính vào chuyện con nít nhà người. Nghĩ vậy, lão hơi chuyển mình, giơ tay rút thanh đoản kiếm đang đeo ở lưng Quách Tương. Thủ pháp của lão nhanh khôn tả. Quách Tương chỉ cảm thấy một làn gió lạnh thoảng qua, bóng người loáng một cái, thanh kiếm của nàng đã bị người ta đoạt mất. Bất ngờ không kịp đề phòng, bị kẻ khác đoạt vũ khí, thật là điều chưa từng xảy ra từ khi nàng bước chân vào chốn giang hồ. Thực ra, võ công và lịch duyệt của nàng hoàn toàn chưa đủ để dấn thân vào chốn giang hồ, nhưng tám chín phần trong giới võ lâm đều biết nàng là quý nữ của Quách Tĩnh và Hoàng Dung. Sau lần Dương Quá tổ chức mừng sinh nhật cho nàng, ngay trong giới bàng môn tả đạo hầu hết ai cũng đều biết nàng; nếu không trọng Quách Tĩnh và Hoàng Dung thì cũng phải nể mặt Dương Quá. Thêm vào đó, Quách Tương vừa xinh đẹp, vừa hào phóng hiếu khách, dù là dân bán hàng rong hay chủ tiệm thịt chó, nàng cũng coi trọng như nhau, thi thoảng vẫn thết họ chén rượu. Vì thế, tuy giang hồ đầy rẫy phong ba hiểm ác, song nàng đều hóa hung thành cát, chưa hề bị thất thế một lần. Bây giờ bất ngờ bị lão già mặt xanh kia đoạt kiếm, nàng chưa biết đối phó ra sao. Nếu xông lên giành lại, tự nghĩ võ công còn thua xa lão; song nếu bó tay, thì há cam lòng? Lão mặt xanh dùng ngón trỏ và ngón giữa tay trái kẹp bao kiếm, lạnh lùng nói – Kiếm của mi, lão đây tạm giữ. Mi dám vô lễ với ta, hẳn do phụ mẫu và sư phụ của mi thiếu giáo huấn mà nên. Mi hãy về bảo họ tới gặp ta mà nhận lại kiếm; để ta hướng dẫn cho phụ mẫu và sư phụ của mi cách giáo huấn mi. Lời lẽ đó khiến Quách Tương đỏ bừng mặt; nói thế khác gì bảo nàng không phải con nhà gia giáo. Nàng tự nhủ “Được lắm! Lão chửi mắng ta, chửi cả ông bà cha mẹ ta nữa. Lão có bản lĩnh thông thiên hay sao mà dám cả gan như vậy?” Nàng định thần giây lát, cố nén giận, hỏi – Này lão kia, tên lão là gì? Lão mặt xanh hừ một tiếng, nói – Ai bảo mi nói năng vô lễ như thế? Để lão dạy cho, mi phải hỏi Xin thỉnh giáo quý tính đại danh của lão tiền bối là chi? Quách Tương tức giận nói – Ta cứ thích hỏi lão tên gì đấy. Lão không muốn nói thì thôi, ta chẳng cần biết. Thanh kiếm kia cũng chẳng đáng gì, lão lớn tuổi mà không biết tự trọng lại đi cướp giật của kẻ hậu bối, ta chẳng thèm đòi. Đoạn nàng quay người ra khỏi thạch đình. Bỗng một cái bóng đỏ loáng qua trước mặt, lão lùn mặt đỏ đã chắn đằng trước, lim dim mắt, nói – Con gái chớ nên nóng nảy như thế. Rồi đây sắp về làm dâu nhà người, chẳng lẽ cứ thế nói năng với cha mẹ chồng hay sao? Thôi được, để lão nói cho cô nương biết, ba lão đây là sư huynh sư đệ, mấy ngày qua từ ngoài Tây Vực xa hàng vạn dặm tới Trung nguyên… Quách Tương bĩu môi, ngắt lời – Lão không nói, ta cũng biết. Ở Thần Châu Trung nguyên này người ta không hề biết đến tự hiệu của ba lão. Ba lão già đưa mắt nhìn nhau. Lão mặt đỏ hỏi – Xin hỏi cô nương, tôn sư là vị nào vậy? Ở Thiếu Lâm tự, Quách Tương không chịu nói tên phụ mẫu; còn lúc này vì tức giận, nên nàng liền nói – Thân phụ ta họ Quách tên Tĩnh, thân mẫu ta họ Hoàng, tên Dung. Ta không có sư phụ, võ nghệ là do phụ mẫu chỉ dẫn qua loa đôi chút. Ba lão già lại đưa mắt nhìn nhau. Lão mặt xanh lẩm bẩm “Quách Tĩnh? Hoàng Dung? Họ thuộc môn phái nào vậy? Là đệ tử của ai nhỉ?” Quách Tương nghe lão mặt xanh lẩm bẩm như thế thì càng bực, nghĩ thầm “Phụ mẫu ta danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, chẳng riêng người trong võ lâm, ngay cả bá tánh tầm thường ai ai cũng biết Quách đại hiệp vì nghĩa giữ thành Tương Dương như thế nào”. Nhưng nhìn mặt ba lão già kia, nàng thấy không có vẻ gì là giả dối, nàng chợt hiểu “Côn Luân Tam Thánh ở tận Tây Vực xa xôi, chưa hề tới đất Trung nguyên. Võ công của họ cao siêu, phụ mẫu ta cũng chưa lần nào nhắc đến họ; thế thì họ không biết danh tiếng phụ mẫu ta cũng chẳng có gì là lạ. Chắc xưa nay họ ẩn cư chốn thâm sơn cùng cốc ở Côn Luân, chuyên tâm tập luyện võ nghệ, nên không hay biết gì chuyện bên ngoài”. Nghĩ tới đó, cơn giận tiêu tan, nàng vốn không phải là một thiếu nữ xấc xược, bèn nói – Tiểu nữ họ Quách, tên Tương, là chữ Tương trong “Tương Dương” ấy mà. Vậy là tiểu nữ đã xưng danh rồi đó. Còn ba vị, xin thỉnh vấn ba vị lão tiên sinh quý tính đại danh là chi? Lão mặt đỏ cười hì hì – Hay lắm, tiểu cô nương như thế mới ngoan, vừa dạy đã hiểu liền. Thế mới là đạo tôn kính bề trên. Lão chỉ người mặt vàng, nói – Đây là đại sư huynh của các lão, họ Phan, tên Thiên Canh. Lão đây là nhị sư huynh, họ Phương, tên Thiên Lao. Đoạn chỉ người mặt xanh, nói – Còn đây là tam sư đệ, họ Vệ, tên Thiên Vọng. Ba huynh đệ lão đều có đệm chữ Thiên. Quách Tương vừa nghe vừa lẩm nhẩm ghi nhớ, rồi hỏi – Chẳng hay ba vị đã tới Thiếu Lâm tự chưa? Ba vị tỷ thí võ công với các hòa thượng phải không? Võ nghệ bên nào cao hơn? Lão mặt xanh, tức Vệ Thiên Vọng, hừ một tiếng, quát nói – Sao chuyện gì mi cũng biết hết vậy? Bọn ta tính tỷ thí với đám hòa thượng Thiếu Lâm tự, thiên hạ này chưa ai hay biết, làm sao mi biết hả? Nói mau! Vừa nói lão vừa sấn đến trước mặt Quách Tương, tay phải nắm chặt lại, mắt trừng trừng dữ tợn. Quách Tương nghĩ thầm “Ta há sợ sự uy hiếp của lão? Ta cũng định nói cho lão biết, nhưng lão càng tỏ vẻ hung ác, ta càng không nói”, đoạn nàng cũng trừng mắt nhìn lại, lạnh lùng nói – Cái tên của lão không hợp đâu, phải đổi thành Thiên Ác mới đúng. Vệ Thiên Vọng cả giận, hỏi – Mi bảo sao hả? Quách Tương đáp nói – Một nhân vật hung thần ác sát như lão, bổn cô nương đây chưa từng gặp. Lão đã cướp binh khí của người ta, lại còn hung hung hăng hăng, chẳng phải ác thần hạ phàm thì là gì? Vệ Thiên Vọng kêu mấy tiếng ồ ồ trong họng như tiếng thú rống, ngực lão ta đột nhiên phình to gấp đôi lúc bình thường, râu tóc và lông mày như dựng đứng cả lên. Lão mặt đỏ, tức Phương Thiên Lao, vội nói – Tam đệ, đừng nổi nóng! Rồi cầm tay Quách Tương kéo nàng về phía sau mấy thước, tự mình đứng chắn ở giữa hai người. Quách Tương thấy bộ điệu của Vệ Thiên Vọng như thế, lão ta mà động thủ hẳn khí thế phải đáng sợ lắm. Bất giác nàng ngầm lo sợ. Vệ Thiên Vọng dùng tay phải rút kiếm khỏi bao, lấy hai ngón tay trái kẹp lưỡi kiếm, vận sức bẻ nghe “cắc” một tiếng, thanh đoản kiếm gãy đôi. Đoạn lão ta cắm nửa kiếm gãy vào bao, nói – Ai thèm lấy thanh đoản kiếm vô dụng của mi làm gì? Quách Tương thấy sức mạnh của hai ngón tay lão ta như thế lại càng thêm kinh hãi. Vệ Thiên Vọng thấy nàng tái mặt thì đắc chí, ngửa mặt cười ha hả; tiếng cười nghe chói cả tai, làm rung cành cạch cả lớp ngói lợp thạch đình. Bỗng nghe “ịch” một tiếng, đỉnh thạch đình vỡ toác, hất xuống đất một vật lớn. Mấy người cùng cả kinh, ngay Vệ Thiên Vọng cũng không ngờ rằng mình vận nội lực để phát ra tiếng cười lại có thể làm chấn động lớp ngói lợp thạch đình, như vậy là trong thời gian gần đây nội công của lão ta đã tiến triển vượt bậc. Khi lão ta nhìn kỹ vật vừa rơi xuống thì càng kinh dị hơn, vì đó là một bạch y hán tử trạc tam tuần, hai tay ôm cây đàn, đang nằm đó ngủ khì. Quách Tương mừng rỡ – Kìa, sao tiên sinh lại ở đây? Thì ra đó chính là người gảy đàn và tự đấu cờ trong rừng thông ít hôm trước Quách Tương đã gặp. Người kia nghe giọng nói của Quách Tương, liền choàng dậy, nói – Cô nương, ta tìm cô nương khắp nơi chẳng thấy, không ngờ lại gặp ở đây. Quách Tương hỏi – Tiên sinh tìm tiểu nữ làm chi? Người kia đáp nói – Vì ta quên thỉnh vấn quý tính đại danh của cô nương. Quách Tương nói – Thỉnh với chả vấn quý tính đại danh, nghe văn vẻ sáo rỗng lắm, tiểu nữ chẳng thích nghe đâu. Người kia ngẩn ra giây lát, rồi cười – Đúng lắm, đúng lắm! Càng văn vẻ sáo rỗng, càng làm bộ làm tịch, thì càng không có chân tài thực học. Những kẻ đó chỉ lừa dối được dân quê thôi. Đoạn nhìn chằm chằm vào mặt Vệ Thiên Vọng mà cười nhạt mấy tiếng. Quách Tương cả mừng, không ngờ chàng ta hiểu hàm ý của nàng nhanh đến thế, lại còn lên tiếng bênh vực nàng nữa. Vệ Thiên Vọng cũng trợn mắt nhìn người kia, mặt càng xanh thêm, lạnh lùng hỏi – Các hạ là ai? Người kia chẳng buồn trả lời, nói với Quách Tương – Cô nương, cô nương tên là gì nhỉ? Quách Tương đáp nói – Tiểu nữ họ Quách, tên Tương. Người kia vỗ tay reo lên – Ồ, tại hạ quả có mắt mà không thấy Thái Sơn. Thì ra đây là Quách đại cô nương lừng danh bốn bể. Lệnh tôn Quách Tĩnh đại hiệp, lệnh đường Hoàng Dung nữ hiệp, trừ mấy kẻ vô tri vô thức, lẫn lộn tốt xấu ra, trên giang hồ có ai không biết. Hai vị đó văn võ song toàn, đao thương kiếm kích, quyền chưởng khí công, cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, môn nào cũng thông hiểu hơn người. Ha ha, chỉ có mấy gã ngông cuồng ngu xuẩn mới không biết hai vị ấy thôi! Quách Tương thầm khoái chí “Thì ra chàng ta nấp trên thạch đình đã nghe thấy ta đối đáp với ba lão già kia, chớ thực ra chàng ta cũng có biết phụ mẫu ta là người thế nào đâu. Mình thứ hai, mà chàng ta lại gọi mình là Đại cô nương, lại bảo phụ thân ta thông hiểu cầm kỳ thi họa, thi từ ca phú, quả thật tức cười”. Nghĩ đoạn, nàng hỏi – Thế còn tiên sinh tên chi? Người kia đáp – Ta họ Hà, tên Túc Đạo. Quách Tương cười – Hà Túc Đạo ư! “Hà Túc Đạo” là có gì đáng nói đâu. Sao tiên sinh lại dùng cái tên khiêm nhường như thế? Hà Túc Đạo giải thích – Vì ta không muốn bắt chước mấy gã tiểu tử ngông cuồng tự đại, dám ví mình như thiên như địa này nọ, mới nghe qua cái tên đã thấy lờm lợm. Hà Túc Đạo cứ liên tiếp mỉa mai ba huynh đệ Vệ Thiên Vọng. Bọn họ thấy chàng ta đè vỡ được mái thạch đình mà xuống, hẳn chẳng phải tầm thường, nhưng ban đầu cố nhịn để xem lai lịch của Bạch y quái khách này ra sao. Thế nhưng càng nghe càng thấy lời lẽ của y quá mai mỉa, thì Vệ Thiên Vọng hết chịu nổi, bèn vung chưởng nhắm vào má trái của Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo cúi đầu luồn bên dưới cánh tay của lão già; Vệ Thiên Vọng chỉ cảm thấy cổ tay trái hơi tê, thì thanh đoản kiếm trong tay đã bị cướp mất. Khi Vệ Thiên Vọng đoạt kiếm của Quách Tương, thân pháp lanh lẹ vô cùng, khiến người ta không sao nhìn rõ; đằng này khi Hà Túc Đạo đoạt kiếm của Vệ Thiên Vọng thì thân pháp và thủ pháp hết sức đơn giản nhẹ nhàng, chẳng có gì kỳ lạ. Vệ Thiên Vọng giật mình, tiến lên một bước, giơ năm ngón tay như năm cái móc chộp tới vai Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo né người một chút, bàn tay của Vệ Thiên Vọng bị chộp hụt. Phan Thiên Canh và Phương Thiên Lao đột nhiên nhảy lùi khỏi thạch đình. Lúc ấy Vệ Thiên Vọng đã dùng tả quyền hữu chưởng tấn công dồn dập bảy, tám chiêu liền, còn Hà Túc Đạo tránh phải né trái, ngay vạt áo của chàng ta cũng chưa bị chạm tới. Tay chàng cầm đoản kiếm mà chẳng buồn sử dụng, mặc cho quyền chưởng của đối phương tấn công tới tấp, trước sau chàng vẫn chỉ hơi lắc thân tránh né. Các chiêu đòn của Vệ Thiên Vọng đều bị lạc vào khoảng không. Quách Tương còn ít tuổi, võ công tuy chưa tinh thâm, nhưng thân hữu của nàng toàn là những cao thủ võ lâm đệ nhất đương thời, nên nàng có kiến thức rất cao. Nay thấy Hà Túc Đạo thân pháp vô cùng uyển chuyển, né tránh được mọi chiêu thức cương mãnh của đối phương, võ công cao siêu khác hẳn các môn phái lừng danh ở Trung nguyên, nàng càng xem càng kinh ngạc. Vệ Thiên Vọng tấn công liền hơn hai mươi chiêu vẫn không buộc được đối phương xuất thủ thì tức giận gầm một tiếng, biến đổi quyền pháp, xuất chiêu chậm lại, nhưng quyền lực rất nặng và mạnh. Quách Tương đứng trong thạch đình, cảm thấy quyền phong cứ dồn ép vào người mình, đẩy nàng lùi dần ra bên ngoài. Lúc này Hà Túc Đạo cũng không dám chỉ né tránh mà không phản công; chàng cắm thanh kiếm vào bao thắt lưng, hai chân đứng vững như bàn thạch, quát to – Ngươi biết Ngạnh công, chẳng lẽ ta không biết sử dụng hay sao? Chờ song chưởng của Vệ Thiên Vọng đẩy tới, mới dùng tả chưởng phản kích, lấy Ngạnh công đối phó Ngạnh công; nghe “bùng” một tiếng, Vệ Thiên Vọng loạng choạng thoái lui hai bước. Hà Túc Đạo vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Vệ Thiên Vọng ỷ mình có ngoại môn Ngạnh công cao siêu, hiếm có đối thủ trong thiên hạ, nào ngờ Ngạnh công của đối phương chẳng cần lấy đà tạo thế gì cả vẫn có thể đẩy lão ta thoái lui mấy bước. Lão ta chưa phục, liền hít mạnh một hơi, thét to một tiếng, lại dùng song chưởng tấn công lần nữa. Hà Túc Đạo cũng quát một tiếng, phản kích lại một chưởng; chỉ nghe mấy tiếng răng rắc, nóc thạch đình rung chuyển, cát bụi rớt xuống mù mịt. Vệ Thiên Vọng thoái lui bốn bước mới đứng vững nổi. Sau khi đối chưởng, lão ta đầu tóc rối bù, hai mắt lồi ra, trông bộ dạng thật đáng sợ. Lão ta hai tay ôm đan điền, vận khí mấy cái, ngực lõm vào, bụng phình ra như cái trống, các khớp xương toàn thân kêu lách cách, thong thả tiến từng bước về phía Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo thấy tư thế của đối phương như vậy, không dám khinh thường, vội điều vận chân khí đối địch. Tới cách đối phương chừng bốn, năm thước, Vệ Thiên Vọng lẽ ra cần phải phát chiêu, song chân lão ta vẫn chưa dừng mà tiến thêm hai bước, tới mức mặt đôi bên rất gần, hơi thở phả vào mặt nhau thì mới giơ song chưởng lên, một đánh vào mặt, một đánh vào bụng dưới kẻ địch. Lần này song chưởng một trên một dưới như thế là nhằm buộc địch thủ phải phân tán sức lực. Cả thế công lẫn chưởng lực đều vô cùng lợi hại. Hà Túc Đạo cũng giơ song chưởng cùng lúc, nhưng chưởng lực của chàng một cương một nhu. Vệ Thiên Vọng chỉ cảm thấy tả chưởng đánh vào bụng dưới của đối phương như đánh vào chỗ trống không, còn hữu chưởng đánh vào mặt thì như đụng phải tường đồng vách sắt. Biết là nguy tai, thì một luồng lực đã lùa tới đẩy lão bật khỏi thạch đình. Đây là cách dùng cương đối cương, lực đối lực, bên nào lực yếu hơn ắt bị thụ thương, hoàn toàn không có sự nửa vời; bất luận Vệ Thiên Vọng còn đứng vững hay ngã sóng soài, thì chưởng lực phản kích của lão ta cộng với chưởng lực của Hà Túc Đạo cũng đủ làm cho lão ta phải hộc máu tươi. Phan Thiên Canh và Phương Thiên Lao đồng thanh la to – Xuất thủ! Hai lão cùng giơ tay ra, mỗi người đỡ một bên cánh tay của Vệ Thiên Vọng nhấc vội lên mới làm tiêu tan chưởng lực cương mãnh của Hà Túc Đạo. Vệ Thiên Vọng tuy chưa thụ thương, nhưng ngũ tạng đảo lộn, xương cốt toàn thân tưởng như sắp gãy vụn, mệt tưởng đứt hơi, chân tay bủn rủn. Lão già mặt đỏ, tức Phương Thiên Lao, thấy sư đệ bị đòn đau như vậy thì ngầm kinh hãi và tức giận, nhưng ngoài mặt lại cười hi hi nói – Chưởng lực của các hạ mạnh như vậy, quả là thế gian hiếm có, thán phục, thán phục! Quách Tương nghĩ thầm “Nói về sức cương mãnh của chưởng lực, ai dám sánh với Giáng Long thập bát chưởng của phụ thân ta chứ? Ba lão Côn Luân Tam Thánh ở chốn khỉ ho cò gáy, ếch ngồi đáy giếng, ngông cuồng tự đại, tất có ngày được nếm tài ba của các nhân vật Trung nguyên”. Nghĩ tới đây, nàng chợt đau nhói trong lòng, vì người mà nàng muốn Côn Luân Tam Thánh được nếm tài ba của các nhân vật Trung nguyên không phải phụ thân, mà chính là Dương Quá. Chỉ nghe Phương Thiên Lao nói tiếp – Tiểu lão nhi bất tài, mong được lĩnh giáo kiếm pháp của các hạ. Hà Túc Đạo nói – Phương huynh đối với Quách cô nương rất chu đáo, tại hạ không dám trách cứ. Hai ta cũng chẳng nên tỷ thí. Quách Tương ngẩn người “Thế ra chàng ta làm cho lão họ Vệ khổ sở là vì lão đối xử xấu với ta ư?” Phương Thiên Lao đi tới bên con ngựa, lấy từ trong túi khí giới ra một thanh trường kiếm, rút xoẹt khỏi bao, búng ngón tay vào thân kiếm nghe nó ngân lên “coong coong” hồi lâu. Với thanh kiếm trong tay, lão ta nghiêm mặt không cười nữa, tay trái trình kiếm quyết, từ từ đưa ra, quyết chỉ hướng lên trời, hữu thủ cầm kiếm chỉ lên trời bất động, chính là thế “Tiên nhân chỉ lộ”. Hà Túc Đạo nói – Phương huynh cứ đòi động thủ, tại hạ đành dùng đoản kiếm của Quách cô nương hầu vài chiêu vậy. Nói đoạn chàng nhặt thanh đoản kiếm gãy của Quách Tương; thanh kiếm này vốn dài hai thước, sau khi bị Vệ Thiên Vọng bẻ gãy, lưỡi kiếm chỉ còn dài bảy, tám tấc, mũi kiếm thì tù, hết cả nhọn, chẳng thể gọi là kiếm. Tay trái chàng cầm bao kiếm, tay phải cầm thanh kiếm gãy, đột nhiên tấn công. Lần này chàng xuất chiêu cực nhanh, Phương Thiên Lao chỉ thấy cái bóng trắng loáng trước mắt một cái. Hà Túc Đạo đã tấn công liền ba chiêu. Tuy thanh kiếm quá ngắn, không thể đả thương lão ta, nhưng lão ta cũng thầm kinh hãi “Ba chiêu tấn công lẹ quá, không tài nào chống đỡ, là thứ kiếm pháp gì chứ? Ví thử trong tay y là thanh trường kiếm, chỉ e lúc này mình mất mạng rồi”. Sau khi tấn công liền ba chiêu, Hà Túc Đạo bèn nhảy sang một bên, đứng bất động. Phương Thiên Lao triển khai kiếm pháp, nửa thủ nửa công, chém tới. Hà Túc Đạo chỉ né tránh chứ không phản công, nhưng chốc chốc lại tấn công liền ba chiêu thần tốc khiến thủ vong cước loạn, rồi chàng lại nhảy ra ngoài. Phương Thiên Lao bây giờ dồn dập tấn công, kiếm quang vùn vụt, xuất thủ cực kỳ mau lẹ. Quách Tương nghĩ thầm “Chiêu thức của lão này cương mãnh giống như chưởng pháp của lão họ Vệ kia, nhưng linh hoạt hơn, cho nên cũng lợi hại hơn mấy phần…” Nàng vừa nghĩ tới đó bỗng nghe Hà Túc Đạo quát “Cẩn thận này!” Chữ “này” vừa dứt thì bao kiếm ở tay trái chàng đã nhanh như chớp chụp vào mũi kiếm của Phương Thiên Lao, còn đoản kiếm gãy bên tay hữu gí vào cổ họng lão ta. Trường kiếm đã bị chụp vào bao, Phương Thiên Lao không cách gì chống đỡ, trước mũi kiếm tuy cùn nhưng gí sát cổ họng, lão ta chỉ còn cách buông rơi trường kiếm, ngã người lăn một vòng tránh thế công. Lão ta chưa đứng lên thì một bóng người vút tới, Phan Thiên Canh đã chộp được cán kiếm, rút đánh xoẹt ra khỏi bao. Hà Túc Đạo và Quách Tương cùng lúc thốt lên – Thân pháp tuyệt vời! Lão già mặt vàng như nghệ, trước sau chưa nói nửa lời, võ công hẳn là cao hơn hai lão kia. Hà Túc Đạo nói – Võ công của các hạ cao siêu, tại hạ thán phục vô cùng! Đoạn chàng quay sang nói Quách Tương – Quách cô nương, sau hôm nghe cô nương nhã tấu, ta có sáng tác một nhạc khúc, muốn được cô nương phẩm bình. Quách Tương hỏi – Nhạc khúc gì vậy? Hà Túc Đạo ngồi xếp chân bàn tròn, đặt cây đàn trên đùi, so dây, định gảy. Phan Thiên Canh nói – Các hạ liên tiếp đánh bại hai sư đệ của tại hạ, tại hạ muốn được thỉnh giáo. Hà Túc Đạo xua xua tay – Võ công tỷ thí xong rồi, tại hạ không còn hứng cái trò ấy nữa. Để tại hạ gảy đàn cho Quách cô nương nghe. Đây là một nhạc khúc mới. Ba vị muốn thưởng thức thì xin mời ngồi xuống nghe, hiểu hay không là tùy các vị. Nói rồi tay trái vê dây, tay phải gảy đàn tức thì. Quách Tương chỉ nghe vài cung đã vừa ngạc nhiên vừa vui mừng. Thì ra nhạc khúc này một phần là điệu “Khảo bàn” trong Kinh Thi mà nàng đã gảy bữa trước, một phần là điệu “Kiêm hà” trong Tần Phong[9]. Hai điệu thơ này khác hẳn nhau, được chàng phối hợp thành một nhạc khúc, một ứng một đáp, nghe xúc động diệu kỳ. Khi nghe cầm vận tấu tới đoạn “Khảo bàn tại giản, thạc nhân chi khoan. Kiêm hà thương thương, bạch lộ vi sương, sở vị y nhân, tại thủy nhất phương… thạc nhân chi khoan, thạc nhân chi khoan… Tố hồi tòng chi, đạo trở thả trường, tố du tòng chi, uyển tại thủy trung ương… độc mỵ ngụ ngôn, vĩnh thỉ phất huyên, vĩnh thỉ phất huyên…”, thì Quách Tương có cảm tưởng nhạc khúc này bày tỏ sự nhớ nhung gắn bó, dường như có nhắc đến nàng; bất giác nàng đỏ mặt thẹn thùng. Nhạc khúc quá ư huyền diệu, nguyên vận hai bài “Khảo bàn” và “Kiêm hà” không lạc nhau chút nào, cứ nhịp nhàng ứng đáp, mỗi bên vẫn giữ đầy đủ sự hoa mỹ của mình. Đời nàng chưa bao giờ có diễm phúc được nghe một nhạc khúc như thế cả. Ba lão già nghe đàn chẳng hiểu gì hết. Bọn họ không biết Hà Túc Đạo tính tình cuồng phóng, si tình, pha chút hủ nho, chàng mới sáng tác nhạc khúc này nên phải tìm Quách Tương để nàng thưởng thức cho bằng được; huống hồ nhạc khúc này đúng là vì nàng mà sáng tác, nên chàng chẳng còn để ý đến mọi chuyện khác. Thấy chàng chăm chú gảy đàn, chẳng buồn để mắt tới ba lão già, hiển nhiên là không coi họ ra gì, thử hỏi họ chịu sao đặng? Phan Thiên Canh liền cầm trường kiếm chỉ vào vai trái Hà Túc Đạo, quát lớn – Mau đứng dậy, ta phải đấu thử với các hạ một phen! Hà Túc Đạo đang đắm mình say sưa theo khúc nhạc, tựa hồ một gã cuồng sinh đang ngao du sơn thủy, thấy trên tiểu đảo xa xa giữa hồ nước hình bóng một thiếu nữ dịu dàng, thế là bất chấp núi non cách trở, chàng liền lao về phía nàng… Bỗng nghe vai trái đau nhói, chàng ngẩng nhìn lên, thấy trường kiếm của Phan Thiên Canh điểm vào vai chàng làm rách một chút da thịt; nếu chàng không mau chống đỡ, e sẽ bị kiếm đả thương. Nhưng nhạc khúc chưa gảy xong, lại có kẻ phàm tục kè kè quấy nhiễu, bảo sao Hà Túc Đạo không nổi giận; chàng liền rút phắt thanh kiếm gãy, hất trường kiếm của Phan Thiên Canh bật ra, tay phải vẫn tiếp tục dạo đàn. Lúc này Hà Túc Đạo mới giở hết tuyệt kỹ bình sinh, tay trái sử kiếm, tay phải gảy đàn, không còn tay nào để nắn dây nên khi nào âm vực cần lên cao thì chàng vận khí thổi cho dây đàn lõm xuống như dùng tay nắn vậy, nhờ đó tiếng đàn vẫn dìu dặt luyến láy như thường. Phan Thiên Canh tới tấp tấn công mấy chiêu, Hà Túc Đạo chỉ thuận tay chống đỡ, hai mắt vẫn chăm chú vào dây đàn, miệng lo thổi hơi sao cho âm thanh của đàn đúng nốt. Phan Thiên Canh cả giận, kiếm chiêu càng nhanh càng hiểm, song trường kiếm của lão đâm tới bất cứ chỗ nào cũng đều bị Hà Túc Đạo dễ dàng gạt đi. Quách Tương mải nghe đàn, thả hồn theo nhạc điệu, cũng chẳng để ý tới kiếm thế lợi hại của Phan Thiên Canh, chỉ đôi lúc nhận thấy tiếng kiếm va nhau không ăn nhập với tiếng đàn. Nàng dùng hai tay nhè nhẹ đánh nhịp, cau mày trách Phan Thiên Canh – Vị này xuất chiêu lúc nhanh lúc chậm, chẳng hợp nhịp đàn, lẽ nào không hiểu chút gì về âm vận? Giá như biết xuất chiêu hợp theo tiết tấu bản đàn, có phải dễ nghe hơn không. Phan Thiên Canh không đếm xỉa gì đến nàng. Lão ta thấy đối thủ ngồi dưới đất, chăm chú chơi đàn, một tay sử dụng thanh kiếm gãy, chẳng thèm để mắt tới mình, thì lão ta càng giận thêm, đột ngột thay đổi kiếm pháp tấn công dồn dập liên hồi. Tiếng hai thanh kiếm va chạm nhau sầm sập như tiếng mưa rào. Tiếng đàn cũng gấp gấp một chập, không hòa hợp với âm vận dìu dặt ôn hòa. Hà Túc Đạo trừng mắt, truyền kình lực vào đoản kiếm, chỉ nghe “coong” một tiếng, trường kiếm của Phan Thiên Canh bị gãy đôi, nhưng lúc này dây thứ năm của cây thất huyền cầm cũng đứt phựt. Phan Thiên Canh mặt nhợt nhạt như kẻ mất hồn, không nói nửa lời, quay người ra khỏi thạch đình. Ba lão già cùng nhảy lên ngựa, phóng vội lên núi. Quách Tương vô cùng ngạc nhiên, hỏi – Ủa, ba người kia đã bại trận, sao lại còn lên Thiếu Lâm tự làm gì? Chẳng lẽ họ định đánh chí chết hay sao? Nàng quay lại, thấy Hà Túc Đạo vẻ mặt rầu rĩ, tay xoa xoa sợi dây đàn bị đứt, tựa hồ đau đớn không nói nên lời. Quách Tương nghĩ thầm “Đứt một sợi dây đàn, hà tất phải rầu rĩ đến thế?” Nàng liền đỡ cây thất huyền cầm, tháo đoạn dây đứt ra, kéo đoạn dây bên trên buộc vào trụ bên dưới, rồi lên dây thử tiếng. Hà Túc Đạo lắc đầu thở dài – Tu luyện ngần ấy năm, rốt cuộc tâm vẫn chưa an. Tuy tay trái vận sức đánh gãy khí giới đối phương nhưng tay phải lại gảy đứt dây đàn. Giờ Quách Tương mới hiểu thì ra Hà Túc Đạo buồn phiền vì võ công của chàng luyện chưa tới mức thuần thục, liền cười an ủi – Tiên sinh thử nghĩ xem, tay trái giao đấu với địch lợi hại như vậy mà tay phải vẫn thong thả dạo đàn, gọi là phép phân tâm nhị dụng, thiên hạ chỉ có ba vị đạt tới mức tuyệt kỹ mà thôi. Tiên sinh cũng chẳng nên vì thế mà phiền lòng. Hà Túc Đạo hỏi – Ba vị nọ là những ai? Quách Tương đáp – Người thứ nhất là Chu Bá Thông, người thứ hai là phụ thân của tiểu nữ, người thứ ba là Dương phu nhân Tiểu Long Nữ. Ngoài ba vị ấy, ngay những người võ công cao siêu như ông ngoại của tiểu nữ là Đào Hoa đảo chủ, thân mẫu của tiểu nữ và Thần điêu đại hiệp Dương Quá cũng chưa luyện thành tuyệt kỹ. Hà Túc Đạo nói – Thế gian có các kỳ nhân vậy ư? Chẳng hay khi nào cô nương dẫn kiến ta gặp họ? Quách Tương thản nhiên đáp – Muốn gặp phụ thân của tiểu nữ không khó, còn hai vị kia thì không biết đã đi đâu mất dạng. Thấy Hà Túc Đạo ngẩn ngơ, Quách Tương tưởng chàng ta vẫn nghĩ đến việc đứt dây đàn, bèn an ủi – Một mình tiên sinh đã đánh bại Côn Luân Tam Thánh cũng đủ hãnh diện với thế gian, hà tất phải buồn phiền về sợi dây đàn bị đứt? Hà Túc Đạo kinh ngạc, hỏi – Côn Luân Tam Thánh? Cô nương bảo sao? Sao cô nương biết? Quách Tương cười – Ba lão già ban nãy từ Tây Vực đến chính là Côn Luân Tam Thánh chứ còn ai. Võ công của họ quả có chỗ độc đáo, nhưng đòi khiêu chiến với Thiếu Lâm tự thì e rằng không biết tự lượng sức… Nói tới đây, thấy vẻ mặt Hà Túc Đạo càng thêm kinh ngạc nàng bất giác ngừng lời, hỏi – Có gì lạ chăng, tiên sinh? Hà Túc Đạo lẩm bẩm – Côn Luân Tam Thánh… Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo chính là ta đây. Quách Tương sửng sốt – Tiên sinh là Côn Luân Tam Thánh ư? Vậy còn hai người nữa đâu? Hà Túc Đạo nói – Côn Luân Tam Thánh trước giờ chỉ có một người, đâu phải có ba. Ta ở Tây Vực có chút danh tiếng, được bằng hữu khen là có ba tuyệt kỹ cầm – kỳ – kiếm, đáng gọi là cầm thánh, kỳ thánh, kiếm thánh. Ta lại sống ở Côn Luân nên họ mới đặt cho ta ngoại hiệu Côn Luân Tam Thánh. Song ta nghĩ đâu dễ xứng với chữ “thánh”, nên mới thêm hai chữ “túc đạo” vào họ Hà, hợp lại thành Côn Luân Tam Thánh Hà Túc Đạo, nghĩa là “không đáng gọi là Côn Luân Tam Thánh” để người trong thiên hạ khỏi chê ta ngông cuồng tự đại. Quách Tương cười – Hóa ra vậy, thế mà tiểu nữ cứ ngỡ Côn Luân Tam Thánh tức là phải có ba người. Vậy ba lão già ban nãy là ai? Hà Túc Đạo nói – Bọn họ ư? Bọn họ thuộc phái Thiếu Lâm. Quách Tương càng thêm kinh ngạc, nói – Hóa ra ba người ấy lại là đệ tử của phái Thiếu Lâm! Phải rồi, võ công của họ quả nhiên cùng một kiểu cương mãnh. Đúng rồi, lão mặt đỏ chẳng đã sử dụng Đạt Ma kiếm pháp là gì? Còn lão mặt vàng trông như bệnh nhân cứ tấn công tới tấp hẳn là Vĩ Đà phục ma kiếm? Lão ta có biến đổi một chút nên nhất thời tiểu nữ chưa nhận ra. Tại sao họ từ Tây Vực lại tới đây? Hà Túc Đạo nói – Chuyện này kể ra có duyên cớ của nó. Mùa xuân năm ngoái, ta đang gảy đàn trên đỉnh Kinh Thần Phong tại Côn Luân, bỗng nghe bên ngoài lều tranh có tiếng ẩu đả, bèn ra xem, thì thấy có hai kẻ đang vật lộn nhau kịch liệt, mà cả hai đã cùng thụ thương trí mạng. Ta quát họ dừng tay, họ không nghe, ta đành xông vào gỡ họ ra. Một người trợn mắt nhìn ta, rồi thở hắt ra chết liền. Người thứ hai còn thoi thóp, ta bèn dìu vào trong lều, cho uống một viên Thiếu Dương đan, nhưng vì thương thế quá nặng, linh đan cũng chẳng cứu sống nổi, được nửa ngày cũng tắt thở. Lúc lâm chung, y trăn trối, rằng y là Doãn Khắc Tây… Quách Tương “ồ” một tiếng, hỏi – Vậy kẻ ẩu đả với y là Tiêu Tương Tử rồi. Có phải hắn vừa gầy vừa cao, mặt trông chẳng khác gì tử thi? Hà Túc Đạo ngạc nhiên – Phải đó, tại sao chuyện gì cô nương cũng biết? Quách Tương nói – Tiểu nữ có biết mặt họ, ai ngờ hai kẻ đó cuối cùng lại đánh lẫn nhau mà mất mạng. Hà Túc Đạo kể – Doãn Khắc Tây nói rằng trong đời hắn tác ác đa đoan, lúc chết có hối cũng đã muộn. Hắn nói hắn cùng Tiêu Tương Tử có lấy trộm một cuốn kinh của Thiếu Lâm tự. Hai gã cứ canh chừng lẫn nhau, quyết không cho người kia đọc trước, vì sợ đối phương học được võ công cao hơn sẽ ra tay hạ thủ mình để độc chiếm cuốn kinh. Hai gã ăn cùng bàn, ngủ cùng giường, quả thật không rời nhau nửa bước; nhưng khi ăn thì sợ kẻ kia hạ độc, khi ngủ thì lo kẻ kia ám hại, lúc nào cũng lo sợ thấp thỏm chẳng yên. Chúng còn lo các hòa thượng Thiếu Lâm tự truy đuổi nên mới chạy đến tận Tây Vực. Khi tới đỉnh Kinh Thần Phong, cả hai đều kiệt sức hẳn, đều biết nếu cứ tiếp tục sống như thế thì sẽ chết vì mệt; rốt cuộc đôi bên xáp vào ẩu đả nhau. Doãn Khắc Tây nói võ công của Tiêu Tương Tử vốn cao hơn hắn, ngờ đâu Tiêu Tương Tử ra tay trước, mà kết quả hắn lại chiếm được thượng phong. Sau đó hắn mới nghĩ ra, Tiêu Tương Tử vốn bị trọng thương trên đỉnh Hoa Sơn, nguyên khí vẫn chưa phục hồi. Nếu hai gã không tranh giành nhau, hẳn chúng chẳng khi nào tới vùng Côn Luân làm gì. Quách Tương nghe kể, tưởng tượng cái cảnh suốt dọc đường hai gã kia lúc nào cũng lo ngay ngáy đủ điều, bất giác nàng sinh lòng thương hại, thở dài nói – Vì một cuốn kinh mà phải khổ sở rồi mất mạng như thế, thật chẳng đáng! Hà Túc Đạo kể tiếp – Doãn Khắc Tây nói tới đó thì thở dốc, cuối cùng hắn cầu xin ta đến Thiếu Lâm tự một phen, để nói với Giác Viễn hòa thượng ở đó, rằng cuốn kinh nào đó vẫn ở trong dầu. Ta nghe rất lạ, cuốn kinh ở trong dầu là nghĩa làm sao? Định hỏi hắn cho rõ chi tiết thì hắn đã ngất lịm đi. Ta tính chờ hắn ngủ dậy, lại sức, sẽ hỏi cho rõ. Nào ngờ, đó là giấc ngủ ngàn thu của hắn. Ta nghĩ, liệu có phải cuốn kinh được gói trong giấy dầu? Nhưng khám kỹ cả hai gã, chẳng thấy có dấu vết kinh kệ gì cả. Đã nhận lời ủy thác của người, vốn bình sinh chưa bao giờ đặt chân vào Trung nguyên, nên nhân cơ hội này muốn ngao du một chuyến, thế là ta đến Thiếu Lâm tự đây. Quách Tương hỏi – Tại sao tiên sinh lại vào chùa hạ chiến thư, đòi tỷ thí võ nghệ với họ? Hà Túc Đạo mỉm cười – Việc ấy là do ba lão vừa rồi mà ra. Ba người kia là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm Tây Vực. Theo lời giới võ lâm ở Tây Vực thì cả ba đều có vai vế chữ “Thiên”, ngang hàng lão phương trượng Thiếu Lâm tự hiện thời là Thiên Minh thiền sư. Nghe đâu sư tổ của họ xưa kia vì bất đồng ý kiến với sư huynh đệ trong chùa nên đã giận dữ bỏ đi tới tận Tây Vực xa xôi, lập ra một chi phái Thiếu Lâm tự ở Tây Vực. Võ công của phái Thiếu Lâm vốn do Đạt Ma tổ sư truyền từ Thiên Trúc tới Trung nguyên, rồi từ Trung nguyên phân chia ra một chi phái ở Tây Vực thì cũng đâu có gì lạ. Ba người kia nghe ngoại hiệu Côn Luân Tam Thánh của ta, cứ theo đòi tỷ võ với ta. Đi đâu họ cũng luôn miệng dương ngôn rằng võ công của phái Thiếu Lâm là thiên hạ vô địch, ta muốn xưng là “cầm thánh”, “kỳ thánh” gì gì cũng được tuốt, nhưng họ quyết không cho phép ta xưng “kiếm thánh”, họ đòi ta phải từ bỏ ngoại hiệu Tam Thánh. Đúng lúc đó ta gặp Doãn Khắc Tây, nghĩ bụng thôi thì nhân tiện đi Thiếu Lâm tự làm luôn hai việc một lần; ta bèn phái người hẹn với ba lão kia ở Thiếu Lâm tự, rồi khởi hành đi Trung nguyên liền. Ai dè ba vị ấy cũng nhanh chân phải biết, họ khởi hành sau ta mà cũng tới kịp rồi. Quách Tương cười – Ồ, đầu đuôi câu chuyện là thế, hóa ra tiểu nữ đoán sai hết cả! Ba lão đó lúc này hẳn đã tới Thiếu Lâm tự, không biết họ sẽ nói gì đây? Hà Túc Đạo nói – Ta với đám hòa thượng Thiếu Lâm tự vốn không quen biết, cũng chẳng thù oán gì nhau; sở dĩ ta hẹn mươi ngày là muốn chờ cho ba lão này tới kịp, ta mới hành động. Vừa nãy đánh nhau rồi, bây giờ hai ta cùng lên trên đó, đợi ta chuyển lại lời trối trăn của Doãn Khắc Tây, rồi xuống núi là xong. Quách Tương cau mày, nói – Luật lệ của giới hòa thượng nhiều và nghiêm lắm, không cho nhi nữ vào chùa. Hà Túc Đạo nói – Luật với chả lệ! Hai ta cứ tiến thẳng vào trong chùa, để xem ai giết nổi ai? Quách Tương vốn tính hiếu kỳ, nhưng nàng đã kết giao với Vô Sắc thiền sư, cũng không có ý thù địch với Thiếu Lâm tự, nên nàng cười, lắc đầu – Tiểu nữ ở bên ngoài chờ tiên sinh, tiên sinh cứ vào trong mà chuyển lời cho đỡ phiền phức. Hà Túc Đạo gật đầu – Vậy cũng được. Nhạc khúc ban nãy ta chưa đàn xong, chờ lát nữa ta sẽ đàn lại hầu cô nương. Comments comments
TemplateThông tin sáchỶ Thiên Đồ Long ký Chinese 倚天屠龍記, còn được dịch ra tiếng Việt là Cô gái Đồ Long, là một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung. Đây là cuốn cuối cùng trong bộ tiểu thuyết Xạ điêu tam khúc. Tiểu thuyết được Hương Cảng Thương báo xuất bản lần đầu năm 1961 tại Hồng Kông và sau đó bản tiếng Việt được Nhà xuất bản Văn học xuất bản tại Việt Nam. Bối cảnh tiểu thuyết lấy vào cuối thời nhà Nguyên, 80 năm sau sự kiện trên đỉnh Hoa Sơn trong Thần điêu hiệp lữ, lúc này nhà Nguyên đang bị suy yếu bởi các cuộc khởi nghĩa và vì sự xa hoa lãng phí của triều đình. Truyện xoay quanh Trương Vô Kỵ và mối tình phức tạp với 4 cô gái, bên cạnh đó là những âm mưu thủ đoạn đầy máu tanh trên giang hồ nhằm chiếm đoạt hai món báu vật là Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm, với lời đồn nếu tìm được bí mật trong đao kiếm sẽ hiệu triệu được thiên hạ. Truyện kết thúc với sự sụp đổ của nhà Nguyên, người Mông Cổ phải rút về thảo nguyên phía bắc cùng với sự thành lập của nhà Minh bởi Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Trương Vô Kỵ là nhân vật chính trong truyện, được xem là có nội tâm phức tạp hơn so với Quách Tĩnh và Dương Quá, điều này làm cho nhân vật trở nên thực tế hơn. Trương Vô Kỵ vào cuối truyện xem Triệu Mẫn là tình yêu của đời mình. Mặc dù có võ công cao cường và là một người chính trực khẳng khái, người có thể truyền cảm hứng cho người khác, song Trương Vô Kỵ không hề có những tố chất cần thiết của một nhà lãnh đạo là lòng ham muốn mãnh liệt đối với quyền lực và tâm kế để duy trì quyền lực. Chính vì vậy vào cuối truyện, anh đã bị Chu Nguyên Chương lừa nên bỏ đi cùng Triệu Mẫn và quyền lực Minh giáo dần rơi vào tay Chu Nguyên Chương, làm bước đệm cho y tranh thiên hạ. Contents 1 Hồi 2 Cốt truyện Bí mật trong đao kiếm Trương Tam Phong và phái Võ Đang Cha mẹ của Trương Vô Kỵ Vô Kỵ lưu lạc giang hồ Vô Kỵ chinh phục võ lâm Vô Kỵ gặp Triệu Mẫn Triệu Mẫn phá đám cưới của Vô Kỵ Vô Kỵ giải cứu Tạ Tốn 3 Ý nghĩa 4 Nhân vật Nhân vật Chính 5 Chuyển thể Phim điện ảnh Phim truyền hình 6 Xem thêm 7 Tham khảo 8 Liên kết ngoài Hồi ''Ỷ Thiên Đồ Long ký'' có tổng cộng 39 hồi. Hồi 1 Thiên Nhai Tư Quân Bất Khả Vong Hồi 2 Võ Đương Sơn Đính Tùng Bách Trường Hồi 3 Bảo Đao Bách Luyện Sinh Huyền Quang Hồi 4 Tự Tác Tang Loạn Ý Bàng Hoàng Hồi 5 Hạo Tí Tự Ngọc Mai Hoa Trang Hồi 6 Phù Tra Bắc Minh Hải Mang Mang Hồi 7 Thùy Tống Băng Khả Lai Tiên Hương Hồi 8 Cùng Phát Thập Tải Phiếm Qui Hàng Hồi 9 Thất Hiệp Tụ Hội Lạc Vị Ương Hồi 10 Bách Tuế Thọ Yến Tồi Can Trường Hồi 11 Hữu Nữ Trường Thiệt Lợi Như Thương Hồi 12 Châm Kỳ Cao Hề Dược Kỳ Hoang Hồi 13 Bất Hối Trọng Tử Du Ngã Tường Hồi 14 Đương Đạo Thời Kiến Trung Sơn Lang Hồi 15 Kỳ Mưu Bí Kế Mộng Nhất Trường Hồi 16 Bác Cực Nhi Phục Tham Cửu Dương Hồi 17 Thanh Dực Xuất Một Nhất Tiếu Dương Hồi 18 Ỷ Thiên Trường Kiếm Phi Hàn Mang Hồi 19 Họa Khởi Tiêu Tường Phá Kim Thang Hồi 20 Dữ Tử Cộng Huyệt Tương Phù Tương Hồi 21 Bài Nạn Giải Phân Đương Lục Cường Hồi 22 Quần Hùng Qui Tâm Ước Tam Chương Hồi 23 Linh Phù Túy Khách Lục Liễu Trang Hồi 24 Thái Cực Sơ Truyền Nhu Khắc Cương Hồi 25 Cử Hỏa Liệu Thiên Hà Hoàng Hoàng Hồi 26 Tuấn Mạo Ngọc Diện Cam Hủy Thương Hồi 27 Bách Xích Cao Tháp Nhiệm Hồi Tường Hồi 28 Ân Đoạn Nghĩa Tuyệt Tử Sam Vương Hồi 29 Tứ Nữ Đồng Chu Hà Sở Vọng Hồi 30 Đông Tây Vĩnh Cách Như Sâm Thương Hồi 31 Đao Kiếm Tề Thất Nhân Vân Vong Hồi 32 Oan Mông Bất Bạch Sầu Dục Cuồng Hồi 33 Tiêu Trường Cầm Đoản Y Lưu Hoàng Hồi 34 Đồ Sư Hữu Hội Thục Vi Ương Hồi 35 Yêu Kiều Tam Tùng Uất Thanh Thương Hồi 36 Thiên Hạ Anh Hùng Mạc Năng Đương Hồi 37 Quân Tử Khả Khi Chi Dĩ Phương Hồi 38 Bí Cập Binh Thư Thử Trung Tàng Hồi 39 Bất Thức Trương Lang Thị Trương Lang Cốt truyện Câu chuyện xoay quanh truyền thuyết về Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm là hai báu vật trong võ lâm, nếu ai nắm được cả hai thứ đó sẽ hiệu triệu được thiên hạ Võ lâm chí tôn Bảo đao Đồ Long Hiệu lệnh thiên hạ Mạc cảm bất tòng Ỷ Thiên bất xuất Thùy dữ tranh phong Tạm dịch Trong võ lâm chí tôn, đao báu Đồ Long là hiệu lệnh của thiên hạ, không ai là không theo. Nếu kiếm Ỷ Thiên không xuất hiện thì lấy gì cùng nó Đồ Long tranh phong? Bí mật trong đao kiếm Năm xưa khi quân Mông Cổ vây đánh thành Tương Dương, Hoàng Dung thấy thế quân quá lớn biết rằng không thể giữ được thành, vì không muốn võ công và binh pháp của Quách Tĩnh bị thất truyền lại mong muốn sau này hậu thế có thể dùng những công phu tuyệt luân đó đánh đuổi quân thù nên đã rèn hai món bảo vật làỶ Thiên Kiếm và Đồ Long Đao rồi đem bí kíp giấu vào trong đó. Ỷ Thiên kiếm giấu bí kíp Cửu Âm Chân Kinh. Trong Đồ Long đao giấu bộ Vũ Mục di thư. Kiếm sắc bén vô cùng không vũ khí nào so bì được. Vì thế giang hồ có câu "Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong". Cây kiếm về sau được lưu truyền bởi Quách Tương, người sáng lập ra phái Nga Mi và truyền nhiều đời cho chưởng môn của giáo phái. Sau khi bị Triệu Mẫn cướp, kiếm lại bị Chu Chỉ Nhược dùng mưu mẹo ăn cắp và khám phá ra bí mật của kiếm để từ đó luyện Cửu Âm Bạch Cốt Trảo. Trong bản sửa đổi mới nhất, Kim Dung đã sửa lại trong đao và kiếm không chứa các bản viết tay mà chứa 2 miếng sắt, lý do là khi đao kiếm chém vào nhau làm tóe lửa sẽ thiêu hủy bí kíp. Hai miếng sắt trong bản mới có vẽ bản đồ chỉ đường đến Đào Hoa đảo, nơi cất giấu bản viết tay Cửu Âm chân kinh và Vũ Mục di thư. Trương Tam Phong và phái Võ Đang Sau khi kết thúc bộ Thần điêu hiệp lữ, hai thầy trò Giác Viễn và Trương Quân Bảo trở về Thiếu Lâm chịu phạt vì tội để mất bộ "Lăng Già kinh", trong đó có tuyệt thế thần công "Cửu Dương Thần Công". Một hôm nữ hiệp Quách Tương đi ngang qua chùa Thiếu Lâm, gặp đúng lúc Tam Thánh Côn Luân Hà Túc Đạo khiêu chiến chùa Thiếu Lâm. Trương Quân Bảo ra đối chiến với Hà Túc Đạo, đuổi được hắn đi. Trước khi đi, Hà Túc Đạo để lại lời nhắn rằng hai tên Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử đã chết, Tiêu Tương Tử trước khi chết nói lại "Kinh tại hầu trung" kinh trong bụng khỉ, nhưng do hấp hối nên Hà Túc Đạo nghe thành "kinh tại dầu trung" kinh ở trong dầu và Hà Túc Đạo đem lại lời nhắn đó nói cho Giác Viễn rồi bỏ đi. Các tăng chùa Thiếu Lâm thấy Trương Quân Bảo đánh được cường địch, lại cho rằng cậu học lén võ công trong chùa, muốn bắt cậu mà phế đi võ công rồi đuổi khỏi chùa. Quách Tương bất bình nên đứng ra giúp Quân Bảo. Giác Viễn biết chùa Thiếu Lâm người đông thế mạnh nên bỏ 2 người vào 2 đầu đòn gánh mà vừa gánh vừa chạy. Chạy đến chân núi thì Giác Viễn hết sức, ngồi tọa thiền nhập định, trong lúc nhập thần đã đọc lại toàn bộ Cửu Dương Thần Công cho ba người khác nghe là Trương Quân Bảo, Quách Tương và Vô Sắc thiền sư chùa Thiếu Lâm đã phát hiện ba người Giác Viễn nhưng nấp sau bụi cây. Giác Viễn ngay sau đó đã viên tịch, Vô Sắc để cho 2 người Quách Tương xuống núi. Ba người đều dựa vào những gì nghe được hôm đó, tuy không thể nào nhớ hết được, mà ngộ ra võ học, khai tông lập phái. Quách Tương trở về Tương Dương và theo lệnh cha mẹ mang theo Ỷ Thiên kiếm đến núi Nga Mi lập phái, còn Đồ Long đao, sau khi quân Mông Cổ phá được thành Tương Dương thì cả nhà Quách Tĩnh đều tự sát nên rơi vào tay quân Mông Cổ. Vô Sắc biên soạn lại nội công phái Thiếu Lâm, trở thành cao thủ một đời. Trương Quân Bảo siêng năng tập luyện thần công, lại hay hành hiệp trượng nghĩa. Đến năm năm mươi tuổi, ông học được phép dưỡng sinh của đạo gia, đi ngang qua núi Võ Đang, thấy có 3 ngọn núi sừng sững, từ đó ngộ ra cảnh giới mới của võ học nên lấy đạo hiệu là Tam Phong. Ông lên núi lập quán, sáng lập ra phái Võ Đang, lại thu nhận bảy người đệ tử gồm Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Tùng Khê, Trương Thúy Sơn, Ân Lê Đình và Mạc Thanh Cốc, được giang hồ tôn làm "Võ Đang thất hiệp". Phái Võ Đang trở thành thái sơn bắc đẩu trong võ lâm, được sánh ngang với chùa Thiếu Lâm. Cha mẹ của Trương Vô Kỵ Du Đại Nham, đệ tử thứ ba của Trương Tam Phong phái Võ Đang, trên bước đường giang hồ hành hiệp, do cứu người hoạn nạn mà tình cờ có được Đồ Long đao. Ngay sau đó, chàng bị Ân Tố Tố, con gái của Ân Thiên Chính - giáo chủ Thiên Ưng giáo, phóng ngân châm đả thương và chiếm đoạt Đồ Long đao. Ân cô nương thuê Đô Đại Cẩm chủ Long Môn tiêu cục chuyển Du Đại Nham bị thương liệt người về núi Võ Đang giao cho chưởng môn Trương Tam Phong. Gần đến núi Võ Đang, Đô Đại Cẩm giao nhầm Du Đại Nham cho sáu người lạ mặt A Tam, A Nhị, A Đại và 3 cao thủ Tây Vực khác, A Tam dùng Kim Cang Đại Lực Chỉ đánh Du Đại Nham trọng thương thêm một lần nữa đứt hết gân cốt. Trương Thúy Sơn, đệ tử thứ năm của Trương Tam Phong, tìm được Du Đại Nham và đưa lên núi. Vì việc hộ tống Du Đại Nham không thành mà Ân Tố Tố tàn sát cả bảy mươi hai người ở Long Môn tiêu cục và một số cao thủ khác được họ Đô mời bảo hộ tiêu cục của phái Thiếu Lâm. Trương Thúy Sơn vì tức giận Đô Đại Cẩm, cũng đến Long Môn Tiêu Cục để làm khó dễ họ. Trong khi đó, Ân Tố giả dạng Trương Thúy Sơn giết người làm xảy ra chuyện hiểu lầm giữa phái Võ Đang và Thiếu Lâm. Tại đây, chàng gặp Ân Tố Tố, nhưng không biết rằng nàng là người đã hạ độc thủ. Sau vài lời trao đổi, Trương Thúy Sơn nhận ra Ân Tố Tố có biết về việc Du Đại Nham nên nhảy lên thuyền Ân Tố Tố rồi nghe nàng kể chuyện nàng đã thuê hộ tống Du Đại Nham như thế nào, rồi Du Đại Nham bị giao lầm cho sáu kẻ lạ mặt như thế nào, và nàng đã tấn công sáu kẻ lạ mặt đó và trúng thương bởi ba mai hoa tiêu tẩm độc. Trương Thúy Sơn cảm kích, vận nội lực chữa chạy vết thương cho nàng. Ân Tố Tố cũng có vẻ say đắm Trương Thúy Sơn, và mời chàng ra đảo Vương Bàn Sơn, nơi Thiên Ưng giáo tổ chức một cuộc hội họp nhỏ giữa một số phái để khoe đao Đồ Long. Tại đây xảy ra một vài cuộc tranh tài nhỏ trong giữa Trương Thúy Sơn và các cao thủ võ lâm, đồng thời Ân Tố Tố cũng thêm phần say mê Trương Thúy Sơn. Giữa lúc đao Đồ Long được đem ra thì Tạ Tốn xuất hiện, sát hại các cao thủ, đoạt đao Đồ Long và thách đấu với Trương Thúy Sơn. Chàng dùng thư pháp viết lên hai mươi bốn chữ trên vách núi "Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong". Tạ Tốn chịu thua, tha chết cho Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố nhưng dùng tuyệt kĩ "Sư Tử Hống" hạ sát tất cả những người khác trên đảo - trừ vài người có nội công cao cường chỉ bị điên dại, hoặc bị ngất trước đó nên không sao cả. Sau đó ba người lên một chiếc thuyền nhắm hướng ra biển cả. Trải qua một trận bão lớn, thuyền bị đắm, cả ba người bị trôi dạt lên vùng cực bắc nương nhờ theo các tảng băng sơn. Tạ Tốn trong lúc nóng giận phát điên định giết Trương và Ân nhưng bị Ân cô nương bắn ngân châm làm mù mắt. Cuối cùng cả ba người đều trôi dạt đến một hòn đảo với một ngọn núi lửa ở trung tâm nhưng đất đai khá màu mỡ. Nơi này Ân Tố Tố và Trương Thúy Sơn kết nghĩa vợ chồng, hạ sinh được một đứa con trai đặt tên là Trương Vô Kỵ - tên đặt theo tên của con trai Tạ Tốn đã bị giết trước đây là Tạ Vô Kỵ - nhận Tạ Tốn làm cha đỡ đầu. Trương Thúy Sơn bái Tạ Tốn là anh kết nghĩa. Đến năm Vô Kỵ lên mười tuổi, Tạ Tốn ở lại băng đảo để tránh ân oán giang hồ, Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đóng bè đưa Vô Kỵ về Trung Nguyên. Về lại quê xưa, Trương Ân hai người mới biết rằng mười năm qua các phái đánh nhau triền miên vì sự mất tích của hai người cùng Tạ Tốn và đao Đồ Long. Trên đường về núi Võ Đang, Vô Kỵ bị một kẻ lạ mặt bắt cóc và Vô Kỵ trúng phải hàn độc của Huyền Minh thần chưởng. Cũng tại núi Võ Đang, Trương Thúy Sơn bị các đại môn phái ở Trung Nguyên làm khó dễ vì là anh em kết nghĩa với tạ tốn và biết Tạ Tốn đang ở đâu. Vì không thể nói ra tung tích của Tạ Tốn nên chàng rút kiếm tự vẫn, Ân Tố Tố cũng tự tử chết theo chồng. Cũng tại núi Võ Đang, Trương Vô Kỵ cũng được kẻ lạ mặt thực ra là Huyền Minh Nhị Lão đánh trọng thương bởi võ công Huyền Minh thần chưởng mang tới chứng kiến cha mẹ tự vẫn, Trương Tam Phong dùng Thuần Dương Vô Cực mà ngày xưa nghe được một ít từ Giác Viễn đại sư trị được phần nào nội thương của Vô Kỵ. Sau đó ông đích thân dẫn Vô Kỵ lên núi Thiếu Thất xin các nhà sư Thiếu Lâm truyền phần còn lại của Cửu dương chân kinh để Vô Kỵ có thể tự trị được nội thương. Không Văn, chưởng môn của phái Thiếu Lâm từ chối, Trương Tam Phong đành dắt Vô Kỵ xuống núi. Vô Kỵ lưu lạc giang hồ Lúc xuống núi, Trương Tam Phong cứu được Chu Chỉ Nhược cùng một Hán tử thuộc Minh giáo đang bị quân Nguyên đuổi đánh trên sông là Thường Ngộ Xuân. Để cảm tạ, Hán tử này dẫn Trương Vô Kỵ đến một danh y của Minh Giáo tên là Hồ Thanh Ngưu để xin chữa bệnh. Đổi lại, Trương Tam Phong dẫn cô bé tên là Chu Chỉ Nhược, con gái người lái đò đã bị sát hại, về núi Võ Đang. Trên đường đến Hồ Điệp cốc, nơi ở của Hồ Thanh Ngưu, Vô Kỵ vô tình nghe lén được chuyện đời tư của Kỷ Hiểu Phù, một đại đệ tử của phái Nga Mi nhưng lại có một đứa con gái riêng với Dương Tiêu, Quang Minh Tả sứ của Minh giáo là Dương Bất Hối. Vô Kỵ lưu lại Hồ Điệp cốc khoảng hai năm để chữa bệnh đồng thời cũng được Hồ Thanh Ngưu truyền dạy cho nhiều kiến thức y thuật quý báu. Kim Hoa bà bà xuất hiện và đả thương mười lăm người, trong số đó có Kỷ Hiểu Phù, với những chứng bệnh kì quái và bảo họ đến nhờ Hồ Thanh Ngưu chữa. Do Kim Hoa bà bà có mối thù xưa với Hồ Thanh Ngưu vì trước đây ông từ chối chữa bệnh cho chồng bà ta, nên chồng bà chịu chết. Hồ Thanh Ngưu hướng dẫn cho Vô Kỵ chữa chạy những người đó, nhưng bị vợ ông ta phá. Sau đó, hai vợ chồng của Hồ Thanh Ngưu bị Kim Hoa bà bà sát hại sau khi bà bà phát hiện 2 mộ giả của họ. Kỷ Hiểu Phù bị sư phụ là Diệt Tuyệt sư thái đánh chết do không chịu ra tay ám sát Dương Tiêu. Trước lúc lâm chung, Kỷ Hiểu Phù gửi gắm lại đứa con gái tên Dương Bất Hối cho Vô Kỵ và nhờ đem con mình gửi cho cha nó là Dương tả sứ. Kim Hoa bà bà cũng đấu võ với Diệt Tuyệt sư thái nhưng chịu thua khi sư thái sử dụng đến Ỷ Thiên kiếm. Vô Kỵ dắt Bất Hối đi về phía dãy núi Côn Lôn để tìm cha cô bé. Trên đường đi, Vô Kỵ cứu người của phái Côn Lôn bị thương nên được đưa về bản doanh của phái Côn Lôn và gặp chưởng môn Hà Thái Xung. Nơi đây, Vô Kỵ chữa thành công bệnh rắn độc cắn cho người vợ lẻ của ông ta. Ông mở tiệc chiêu đãi thì Vô Kỵ phát giác là rượu có độc, bà vợ cả xuất hiện, nói mình là chủ mưu và tức giận điểm huyệt mọi người, bắt Vô Kỵ uống rượu độc. Vô Kỵ tự giải huyệt - công phu của nghĩa phụ Tạ Tốn, rồi giúp Hà Thái Xung giải huyệt. Vô Kỵ nhận rõ bộ mặt tráo trở của Hà Thái Xung, đành dùng kế lừa Hà Thái Xung giúp mình và Bất Hối trốn chạy, sau đó bị bà vợ cả đuổi theo. Lúc đó thì Dương Tiêu xuất hiện, cứu lấy Bất Hối và Vô Kỵ. Sau khi biết được Bất Hối là con gái mình, Dương Tiêu cảm tạ Vô Kỵ rồi dẫn Bất Hối đi. Vô Kỵ bây giờ một mình lưu lạc giang hồ, không biết là sẽ đi đâu khi mà cậu chỉ còn sống vài năm nữa vì nội thương của Huyền Minh thần chưởng... Vô Kỵ chinh phục võ lâm Khi đi băng qua dãy núi Côn Lôn, vì cứu một con khỉ bị thương, Vô Kỵ bị bầy chó săn của Chu Cửu Chân, con gái Chu Trường Linh Hậu duệ của Đại thừa tướng Chu Tử Liễu, đồ đệ của Nhất Đăng đại sư trong "Anh hùng xạ điêu" và "Thần điêu đại hiệp" cắn trọng thương. Sau khi vết thương hồi phục, Chu Trường Linh dùng mưu kế, tự nhận Trương Thúy Sơn là đại ân nhân, để dụ dỗ Trương Vô Kỵ chỉ ra nơi ở của Tạ Tốn. Vô Kỵ cả tin, kể ra mọi sự; sau đó nhờ tình cờ nghe lén Chu Trường Linh và Võ Liệt Hậu duệ của Tổng quản ngự lâm quân Võ Tam Thông, con cháu của Võ Tu Văn trong "Thần điêu đại hiệp" bàn mưu tính kế đoạt đao Đồ Long, Vô Kỵ bỏ trốn bị Chu Trường Linh đuổi theo và cả hai sẩy chân rơi xuống một vực núi cùng Chu Trường Linh. Ở lưng chừng vực, nhờ vướng cành cây, Vô Kỵ rơi vào một gành đá, rồi khám phá một hang đá lộ thiên lớn. Trong động này, Vô Kỵ nhờ cứu một con khỉ mà tìm ra Cửu dương thấn công ẩn giấu trong bụng khỉ. Khoảng 80 năm về trước, quyển kinh này đã bị hai kẻ gian Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử - xem "Thần điêu đại hiệp" lấy cắp từ Tàng Kinh Các trong chùa Thiếu Lâm, vì sợ phát hiện nên giấu vào bụng khỉ. Hai kẻ này tàn sát lẫn nhau, con khỉ trốn thoát, lưu lạc lên hang đá này. Vô Kỵ trải qua 5 năm tu luyện Cửu dương thần công trong hang đá, nội công trở nên hết sức thâm hậu, tự đẩy được hàn độc ra ngoài. Trong thời gian này, Chu Trường Linh cũng được Trương Vô Kỵ nuôi sống ở ngoài hang bằng trái cây. Sau đó, Vô Kỵ thoát ra ngoài hang, bị Chu Trường Linh bẫy sẩy chân rơi xuống chân núi nhưng rơi vào một bãi cỏ khô phủ đầy tuyết nên không chết mà chỉ bị gãy chân. Chu Trường Linh vì cố chui vô hang cũng bị kẹt mà chết luôn ở đó. Vì ở trong núi lâu, nên không ai còn nhận ra Vô Kỵ. Khi nằm trên tuyết dưỡng thương, Vô Kỵ gặp Ân Ly con gái của Ân Dã Vương, em họ của Vô Kỵ và tự xưng tên mình là Tăng A Ngưu. Ân Ly bị một số người vây đánh, trong đó có cả Chu Chỉ Nhược, được Vô Kỵ truyền nội công chống đỡ. Sau đó, Ân Ly và Vô Kỵ bị phái Nga My dẫn đầu là Diệt Tuyệt sư thái bắt làm tù binh. Lúc đó lục đại phái - 6 phái võ lâm Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga My, Côn Lôn, Hoa Sơn, Không Động đang tiến quân lên đỉnh Quang Minh để tiêu diệt Minh giáo. Vi Nhất Tiếu xuất hiện, cứu lấy Ân Ly, Vô Kỵ đuổi theo, bị Thuyết Bất Đắc bắt bỏ vào túi và đem lên đỉnh Quang Minh. Tại đỉnh Quang Minh, Vô Kỵ chứng kiến Viên Chân Thành Côn ra tay đánh lén các cao thủ của Minh giáo đang tranh võ lẫn nhau. Vô Kỵ ra tay, đánh lại Viên Chân, sau đó đuổi theo Viên Chân, với sự giúp đỡ của Tiểu Chiêu một gián điệp của Kim Hoa bà bà được cài làm hầu nữ bên cạnh của Bất Hối, lọt vào bí đạo nằm sâu trong đỉnh núi. Dưới bí đạo này, Vô Kỵ biết được lịch sử của Minh giáo. hài cốt và bí ẩn về cái chết của vợ chồng Dương giáo chủ và khám phá ra Càn Khôn Đại Nã Di tâm pháp. Vì trong người đã có Cửu dương công thâm hậu, Vô Kỵ chỉ cần qua một đêm đã luyện tới cấp thứ bảy của Càn Khôn Đại Nã Di người thường phải mất 14 năm người có võ công cao cũng phải mất 7 năm mới luyện được một cấp nhưng trước giờ chưa ai luyện được đến cấp thứ 7, ngay cả người sáng lập ra môn võ này cũng chỉ mới luyện được đến cấp thứ 6, nên cấp cuối ông tự nghĩ ra mà chưa xác thực thành thử có nhiều chỗ sai, may sao Trương Vô Kỵ lại bỏ những chỗ này không học, nhờ thế thoát được họa tẩu hỏa nhập ma. Sau khi công lực đã thành, Vô Kỵ phá cửa đá, thoát lên đỉnh núi vào sáng hôm sau. Tại đỉnh núi, Vô Kỵ đánh bại nhiều cao thủ võ lâm của sáu phái, trong đó có cả Không Tính đại sư của phái Thiếu Lâm, vợ chồng Hà Thái Xung - Ban Thục Nhàn của phái Côn Lôn, Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga My, ngũ lão của phái Không Động, Tiên Vu Thông của phái Hoa Sơn. Chu Chỉ Nhược, lúc này đã nhận ra Vô Kỵ, có mách vài chiêu khi chàng đấu kiếm, nhưng sau vì nghe lời sư phụ đã dùng Ỷ thiên kiếm đâm chàng một phát chí mạng. Sau đó, Vô Kỵ được tôn vinh lên làm giáo chủ thứ 34 của Minh giáo, kế vị giáo chủ đời 33 là Dương Đỉnh Thiên. Vô Kỵ gặp Triệu Mẫn Sau khi lên ngôi giáo chủ Minh giáo, Vô Kỵ dẫn một đoàn giáo chúng với ý định đi hoang đảo đón Tạ Tốn về. Khi xuống núi, chàng gặp Ân Lê Đình, đệ tử thứ sáu của Trương Tam Phong, bị thương nặng bởi một loại chưởng thuộc phái Thiếu Lâm Kim cương chỉ lực do [[Phương Trượng Lão Bác Trí Thần Kiếm tức là A Đại-trước đây là trưởng lão Cái Bang và A Nhị. Sau đó chàng gặp Triệu Mẫn còn gọi là Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ - quận chúa Mông Cổ ăn mặc giả trai trên người có đeo thanh Ỷ thiên kiếm. Triệu cô nương mời Vô Kỵ và đoàn người đi cùng đến thăm Lục liễu sơn trang, thết đãi nồng hậu. Sau đó Triệu Mẫn để lại thanh Ỷ thiên kiếm và vào trong. Mọi người tò mò, rút thanh kiếm ra thì hóa ra đó là một thanh kiếm gỗ thơm ngát và sau đó khi ra khỏi sơn trang tất cả đều cảm thấy choáng váng vì trúng độc. Vô Kỵ quay lại sơn trang, xin Triệu Mẫn thuốc giải độc. Triệu Mẫn lừa Vô Kỵ rơi vào hầm tối, chàng hết cách nên đành cù vào gan bàn chân Triệu cô nương để thoát khỏi hầm, đem thuốc giải độc về cứu quần hùng Minh giáo. Sau đó Vô Kỵ dẫn cả đoàn lên chùa Thiếu Lâm để hỏi về vụ Ân Lê Đình. Lên đến đây thì họ thấy chùa trống vắng, các nhà sư đi vây đánh đỉnh Quang Minh vẫn chưa về, các tượng la hán sau lưng đều có khắc dòng chữ "Tiên tru Thiếu Lâm, Tái diệt Võ Đang. Duy ngã Minh giáo, Võ lâm xưng vương." Diệt phái Thiếu Lâm trước, rồi diệt Võ Đang sau. Chỉ còn mình Minh giáo, trong võ lâm đứng đầu. Trước tình hình đó, phỏng đoán rằng Trương Tam Phong và các đệ tử đang gặp nguy, Vô Kỵ nhanh chóng đi sang núi Võ Đang, vừa đúng lúc có cao thủ phái Thiếu Lâm Tây Vực đang muốn ám hại Trương Tam Phong. Lúc này Vô Kỵ cải trang thành một tiểu đồng đi khiêng cáng cho Du Đại Nham. Vừa lúc đó, Triệu Mẫn giả danh Trương Vô Kỵ dẫn theo một số cao thủ đến khiêu khích phái Võ Đang và Trương Tam Phong. Lúc này, Vô Kỵ vẫn giả danh là tiểu đồng, ra tiếp chiêu các cao thủ A Đại, A Nhị, A Tam. Trương chân nhân truyền Thái cực quyền và Thái cực kiếm cho Vô Kỵ ngay tại chỗ. Vô Kỵ đánh bại một số cao thủ, nhưng cũng trúng hàn chưởng của Huyền minh nhị lão, dưới trướng của Triệu Mẫn. Cùng lúc các cao thủ của Minh giáo bao gồm Dương Tiêu, Ân Thiên Chính, Vy Nhất Tiếu, Thuyết Bất Đắc cũng vừa lên kịp núi Võ Đang. Triệu Mẫn dẫn các cao thủ rút lui. Lúc này Vô Kỵ lộ danh tính, vái chào Trương Tam Phong và kể cho thái sư phụ chuyện phiêu lưu của chàng kể từ lúc hai người chia tay khoảng hơn mười năm về trước. Bây giờ thì Du Đại Nham và Ân Lê Đình cũng như Vô Kỵ đều biết mình trúng Đại lực kim cương chỉ của A Tam và Huyền Minh thần chưởng của Huyền minh nhị lão. Vô Kỵ qua hôm sau thì hồi phục, bèn đuổi theo Triệu Mẫn để lấy thuốc cao chữa gãy xương cho Ân lục thúc và Du tam bá, bị Triệu cô nương đánh lừa để cho chàng lấy phải thuốc giả. Sau đó, Triệu Mẫn bắt Vô Kỵ hứa phải làm cho mình ba việc trước khi chỉ cho chàng chỗ lấy thuốc thật, chính là nằm trong cái hộp vàng và chiếc trâm kẹp tóc trước đây Triệu Mẫn tặng riêng cho chàng, và chàng đã vô tình đem tặng lại cho Tiểu Chiêu. Qua điều tra của nhóm Chu Nguyên Chương, Từ Đạt trong Minh giáo, Vô Kỵ biết được các cao thủ của sáu phái đi vây đánh đỉnh Quang Minh, khi về đã trúng kế của Triệu Mẫn bị bắt giam ở chùa Vạn An ở Đại Đô. Và chàng cũng biết được Triệu Mẫn con gái của Nhữ Dương Vương, thống soái của triều đình Nguyên Mông. Triệu cô nương bắt các cao thủ nhốt lại trong tháp trong chùa để học hết các loại võ công và bắt họ quy hàng triều đình. Vô Kỵ cùng Vi Nhất Tiếu và Dương Tiêu lẻn vào tháp và quan sát. Khi Triệu cô nương định ra tay dùng kiếm rạch mặt Chu Chỉ Nhược, Vô Kỵ ra tay cứu Chu cô nương, vô tình ném ra cái hộp vàng mà Triệu cô nương tặng chàng. Thấy Triệu Mẫn ngẩn ngơ nhìn chiếc hộp bị kiếm cắt làm đôi, Vô Kỵ xin lỗi, nói rằng mình luôn mang cái hộp đó bên mình nên lúc đó tiện tay ném ra. Tại đây Vô Kỵ cũng một mình đánh bại được Huyền Minh nhị lão. Sau đó nhờ khinh công tuyệt đỉnh của Vi Nhất Tiếu mà Triệu Mẫn không dám làm hại Chu Chỉ Nhược nữa và Vô Kỵ có thể yên tâm thoát ra. Sau đó, với sự giúp đỡ từ bên trong của Khổ đầu đà - Phạm Dao, xưa vốn là Quang minh hữu sứ của Minh giáo, nay giả làm một cao thủ dưới quyền Triệu Mẫn, Vô Kỵ cùng các cao thủ Minh giáo đã giải cứu được các cao thủ của sáu phái đang bị giam trong tháp chùa Vạn An. Diệt Tuyệt sư thái tự vẫn chứ không muốn Minh giáo cứu, và truyền giao chức chưởng môn phái Nga Mi cho Chu Chỉ Nhược, đồng thời truyền lại bí mật về Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm cho Chu cô nương, và muốn đệ tử phải đoạt được bảo đao và bảo kiếm. Triệu cô nương không tỏ ra thù hận Vô Kỵ đã giải cứu các cao thủ mà còn hẹn gặp riêng Trương giáo chủ tại một quán rượu... Sau khi đưa quần hùng cứu được từ chùa Vạn An ra ngoài thành, Vô Kỵ quay lại điểm hẹn với Triệu Mẫn. Tại quán rượu, Triệu cô nương đưa ra việc phải làm thứ nhất đi tìm đao Đồ Long, vì lúc này Ỷ thiên kiếm đang ở trong tay nàng. Tiểu Chiêu cũng muốn đi cùng để hầu hạ Trương công tử vì nàng cũng yêu Trương Vô Kỵ. Trên đường đi ra phía bờ biển, bên trong một cái miếu, ba người nghe lẻn được chuyện Kim Hoa bà bà biết được Đồ Long đao ở đâu, và định gây hấn với phái Nga My. Biết được Diệt Tuyệt sư thái đã qua đời, Ỷ thiên kiếm không còn trong tay phái Nga My, Kim Hoa bà bà bắt Chu Chỉ Nhược đi. Vô Kỵ và Triệu Mẫn ra bờ biển trước đón đường, cải trang thành thủy thủ, lấy một chiến thuyền Mông Cổ giả làm thuyền đánh cá cho thuê. Kim Hoa bà bà thuê chiếc thuyền đó đưa Chu cô nương ra đảo Linh Xà. Tại đảo Linh Xà, Vô Kỵ mới biết Tạ Tốn đã được Kim Hoa bà bà đưa về từ băng đảo, tìm cách mượn đao Đồ Long để đổi lấy việc bà bà đi tìm Vô Kỵ cho ông ta. Ân Ly cũng đang ở trên đảo. Khi Tạ Tốn tỷ thí võ với Kim Hoa bà bà thì Vô Kỵ mới biết bà ta là Đại Ỷ Ti - Tử Sam Long Vương trong Minh giáo, trên Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn một bậc. Ân Ly bị đánh trọng thương vì không chịu giúp bà bà đánh Tạ Tốn để đoạt bảo đao. Vô Kỵ nhảy ra cứu Ân cô nương và Tạ Tốn. Sau đó các sứ giả Minh giáo Ba Tư xuất hiện, Vô Kỵ đánh nhưng không thắng nổi, Triệu Mẫn xả thân cứu Vô Kỵ nên cũng bị trọng thương. Cả bốn người chạy ra thuyền trốn khỏi đảo, lúc này Chu cô nương và Tiểu Chiêu vẫn còn ở trên thuyền. Trên thuyền Tạ Tốn kể về thân thế của Kim Hoa bà bà, vốn ngày xưa là một thánh nữ của Minh giáo Ba Tư, sang Trung Nguyên để lập công để chuẩn bị lên ngôi giáo chủ. Thế nhưng bà lại kết hôn với một người Hán Hàn Thiên Diệp nên bây giờ Minh giáo Ba Tư muốn sang tìm bắt bà ta về thiêu sống. Ông khuyên Vô Kỵ nên quay lại cứu bà bà. Với sự giúp đỡ của Tiểu Chiêu trong việc dịch những câu văn trên thánh hỏa lệnh, Vô Kỵ thắng được các sứ giả Ba Tư về võ công nhưng lại thua họ về mưu kế. Tiểu Chiêu thật ra là con gái của Kim Hoa bà bà và Ngân Diệp tiên sinh phải chịu nạp mình để trở thành thánh nữ của Minh giáo Ba Tư. Nàng lặng lẽ từ biệt Trương Vô Kỵ và không còn quay lại nữa. Những người Ba Tư cho thuyền đưa Tạ Tốn, Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, Ân Ly về lại Trung Nguyên. Trên đường về, cả đoàn ghé lại một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tối hôm đó, Vô Kỵ cảm thấy uể oải lăn ra ngủ thiếp đi. Khi tỉnh dậy vào sáng hôm sau thì Triệu cô nương và chiếc thuyền đã đi mất, Ân Ly mặt bị rạch, nằm mê man bất tỉnh. Nghĩ rằng Ân cô nương đã chết, Vô Kỵ chôn cô ta và cho rằng Triệu Mẫn đã lừa mình, lấy đi Đồ Long đao và Ỷ thiên kiếm. Vô Kỵ thề sẽ trả thù cho Ân Ly, rồi đính ước với Chu Chỉ Nhược, hẹn rằng khi về Trung Nguyên sẽ làm đám cưới. Triệu Mẫn phá đám cưới của Vô Kỵ Một thời gian không lâu sau đó, có thuyền của Mông Cổ vâng lệnh Triệu cô nương ra đón Vô Kỵ, Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược về lại Trung Nguyên. Về lại đất liền, Vô Kỵ khám phá ra âm mưu và cùng cô gái áo vàng họ Dương vạch mặt Trần Hữu Lượng thuộc Cái Bang đang thao túng Tống Thanh Thư con trai Tống Viễn Kiều, vô tình đánh lén chết Mạc Thanh Cốc để đầu độc phái Võ Đang. Vô Kỵ cũng gặp lại Triệu Mẫn nhưng không nỡ giết nàng, cô nói không phải cô ta là người hại Ân cô nương và lấy đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên. Trong khi đó, Tạ Tốn bị Cái Bang bắt đi. Sau đó, Vô Kỵ tổ chức lễ cưới với Chu Chỉ vì yêu sâu đậm Vô Kỵ, Triệu cô nương xuất hiện, đưa ra việc phải làm thứ hai bảo Vô Kỵ ngăn lễ cưới lại để đi cứu Tạ Tốn, trong bàn tay cô ta có một nắm tóc của Tạ Tốn. Chu Chỉ Nhược xuất chưởng đánh Triệu Mẫn làm cô ta phải bỏ chạy đi nhưng cũng bị thương nặng. Vô Kỵ đuổi theo Triệu cô nương và chữa chạy vết thương cho nàng, đồng thời cũng rất ngạc nhiên về loại độc chưởng của Chu cô nương vừa mới học được. Trên đường, Vô Kỵ và Triệu Mẫn bị Vương Bảo Bảo, anh trai Triệu Mẫn, và đích thân Nhữ Dương Vương cùng thuộc hạ vây bắt. Triệu Mẫn dọa tự tử trước mặt cha nếu không cho mình theo Vô Kỵ, Nhữ Dương Vương đành chịu thua con gái và để hai người ra đi. Vô Kỵ giải cứu Tạ Tốn Tạ Tốn bị biệt giam ở dưới một hầm tối trên chùa Thiếu Lâm, với sự canh gác cẩn mật. Chàng cũng tìm cách lý giải với ba vị đại sư rằng những tội ác gây ra bởi Tạ Tốn là do âm mưu của Viên Chân, tên tục là Thành Côn, trước là sư phụ của Tạ Tốn, sau bái Không Kiến đại sư làm sư phụ. Vài tháng sau, chùa Thiếu Lâm mở đại hội võ lâm để xử vụ Tạ Tốn, tất cả các môn phái lớn đều có mặt, phần là do có thù xưa với Tạ Tốn, phần là muốn đi xem đao Đồ Long. Tại đại hội này, Vô Kỵ gặp lại Chu Chỉ Nhược, cô thông báo với quần hùng rằng cô đã thành hôn với Tống Thanh Thư, người vừa gia nhập phái Nga My. Chu Chỉ Nhược dùng Cửu Âm Bạch Cốt Trảo đánh thương Vô Kỵ nhưng Vô Kỵ chữa trị thương tích cho mình và Tống Thanh Thư bị Nhị thất hiệp đánh trọng thương. Sau đó Vô kỵ biết được nơi nhốt Tạ Tốn cùng với 3 vị đại sư của Thiếu lâm tự. Vô kỵ đưa quần hùng minh giáo tới để giải cứu nghĩa phụ, chàng cùng với Dương Tiêu và Bạch mi Ưng vương xuất thủ nhưng cũng không đánh bại được 3 vị cao tăng của Thiếu lâm Độ Ân, Độ Kiếp và Độ Năng. Phải nhờ đến sự giúp đỡ của Chỉ Nhược, 2 người mới đánh được 3 cao tăng giải cứu Tạ Tốn. Lúc này Viên Chân sư phụ cũ của Tạ Tốn xuất hiện đòi giết Tạ Tốn. Nhưng hắn bị Kim Mao Sư Vương đánh mù đôi mắt và sau đó Tạ Tốn đã tự phế bỏ võ công đã học của Thành Côn để rồi thoát tục lập điện thành phật. Tới đây, qua lời kể của Tạ Tốn, Trương Vô Kỵ mới biết rằng cái đêm trên đảo, người hạ độc chính là Chu Chỉ Nhược. Cô ta lén bỏ thuốc mọi người, sau đó ném Triệu Mẫn lên bè ra biển, rạch mặt Ân Ly và hủy đi Đồ Long Ỷ Thiên, lấy được bí mật trong đó. Tạ Tốn do có thính lực hơn người nên đêm đó biết hết mọi chuyện, nhưng vì sợ Chu Chỉ Nhược hại Vô Kỵ nên phải nói thác rằng chính Triệu Mẫn đã bỏ thuốc rồi trốn đi. Nhưng hỗn loạn chưa dứt, Nhữ Dương Vương đưa quân đánh Thiếu Lâm tự vì cho rằng quần hùng thiên hạ tập trung tại đây có ý tạo phản. Vô Kỵ dẫn dắt quần hùng võ lâm đánh lui quân địch. Cùng với đó là sự van xin cha của quận chúa Triệu Mẫn để mong bảo vệ cho Vô Kỵ mà chấp nhận từ bỏ tất cả danh vị của mình. Sự việc kết thúc là lúc Vô Kỵ tìm lại được mảnh ghép của Đồ Long đao và Ỷ Thiên kiếm cùng với miếng huyền thiết trong bảo đao và bảo kiếm đem chúng rèn lại như cũ. Sau đó Vô Kỵ được quần hùng thiên hạ tôn làm võ lâm chí tôn. Sau đó, một lần gặp được các tướng lĩnh Minh giáo, Trương Vô Kỵ liền cùng dự tiệc với họ, nhưng lại bị Chu Nguyên Chương bỏ thuốc mê. Lúc tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ lầm tưởng các tướng lĩnh Minh giáo muốn giết mình, trong khi đó chỉ là màn kịch được dựng lên bởi Chu Nguyên Chương với con ma thế mạng là Hàn Lâm Nhi. Chán nản, cùng với sự không ham màng danh lợi chàng đã từ bỏ tất cả truyền lại chức giáo chủ Minh giáo cho Dương Tiêu còn mình và Triệu Mẫn bỏ ra hoang đảo sống tiếp phần đời còn lại. Dương Tiêu tuổi già nên không tranh lại được Chu Nguyên Chương. Chu Nguyên Chương sau đó thống lĩnh Minh giáo và vận dụng binh pháp trong Vũ Mục di thư đánh đuổi người Mông Cổ, lập ra nhà Minh trở thành Hồng Vũ hoàng đế tức vua Minh Thái Tổ chữ Minh chỉ Minh giáo vì Minh giáo là lực lượng nòng cốt của Thái Tổ. Minh Thái Tổ lên ngôi, liền tàn sát công thần. Thường Ngộ Xuân vốn được Hồ Thanh Ngưu tiên đoán sống không qua tuổi 40 nên may mắn không bị thanh trừng, còn Từ Đạt và vô số mưu thần tướng lĩnh thì không thoát khỏi dao mổ của nhà vua. Minh giáo bị xem như tà giáo, phải rút lui vào trong bóng tối và trở thành Nhật Nguyệt thần giáo. Ý nghĩa Trong văn hóa truyền thống Trung Quốc, rồng được xem là biểu tượng thiêng liêng tượng trưng cho hoàng đế, thế nên Đồ Long đao mang mục đích là giết hoàng đế. Hoàng đế ở đây chỉ triều đình Mông Nguyên nói chung và Nguyên Huệ Tông nói riêng. Xuyên suốt lịch sử Trung Quốc, có nhiều đế vương đã bị hủ hóa thành bạo chúa gây tai họa cho đất nước. Việc được làm hoàng đế theo quan niệm thời xưa là do người đó được nhận thiên mệnh, nên kiếm Ỷ Thiên có ý nghĩa dựa vào mệnh trời mà chọn người có thiên mệnh. Dựa theo bí mật trong Đồ Long đao là binh pháp và Ỷ Thiên kiếm là võ công, ta có thể hiểu ý nguyện của Quách Tĩnh và Hoàng Dung khi xưa ai khám phá ra bí mật trong đao kiếm sẽ học được binh pháp vô địch, có được sức mạnh hiệu triệu quần chúng cùng đứng dậy đánh đuổi người Mông Cổ, khôi phục giang sơn cho người Hán. Tuy nhiên, nếu như người đó bị hủ hóa, trở thành bạo chúa gây tai họa, thì sẽ có người học được võ công tuyệt thế trong bảo kiếm, mang nhiệm vụ ám sát bạo chúa để thay thế bằng người tài đức. Nhân vật TemplateKim Dung TemplateXem thêm Nhân vật Chính Trương Vô Kỵ, may mắn học được Cửu dương thần công và Càn Khôn Đại Na Di. Ngoài ra còn học được Thất thương quyền của Tạ Tốn, Thái cực quyền và Thái cực kiếm của Trương Tam Phong, võ công ghi trên Thánh Hỏa Lệnh của Ba Tư, trở thành một trong những nhân vật võ công cao cường bậc nhất trong truyện. Truyện là sự đấu tranh giang hồ xoay quanh Đồ Long Đao và Ỷ Thiên Kiếm của 3 phe nhóm chủ yếu gồm Minh giáo Trung Thổ, Triều Đình nhà Nguyên, Lục đại môn phái, ngoài ra còn có các môn phái nhỏ khác. Minh giáo/Ma giáo Lục Đại Môn Phái Triều Đình Nguyên, Nhữ Dương Vương Phủ Phe nhóm khác Lãnh đạo Giáo chủ Dương Đỉnh Thiên Trương Vô Kỵ Thiếu Lâm Không Kiến, Không Văn, Độ Ách, Độ Kiếp, Độ Nạn, Không Trí, Không Tính, Viên Âm, Viên Tuệ. Võ Đang Trương Tam Phong, Tống Viễn Kiều, Trương Tòng Khê, Du Liên Châu, Du Đại Nham, Trương Thúy Sơn, Ân Lê Đình, Mạc Thanh Cốc,Tống Thanh Thư. Cái Bang Sử Hỏa Long, Sử Hồng Thạch, Chưởng Bát Long Đầu, Chưởng Bổng Long Đầu, Trần Hữu Lượng. Nga MiDiệt Tuyệt sư thái, Cô Hồng Tử, Kỷ Hiểu Phù, Đinh Mẫn Quân, Tĩnh Hư, Tĩnh Tuệ, Chu Chỉ Nhược. Côn Lôn Hà Thái Xung, Ban Thục Nhàn. Không Động Không Động Ngũ Lão. Hoa Sơn Nhữ Dương Vương, Bình Nam Vương, Quận chúa Triệu Mẫn, Thế Tử Vương Bảo Bảo Cổ Mộ Hoàng Y nữ nhân Linh xà đảo Ngân Diệp Tiên Sinh Hà Gian song sát Ngọc Chân Quan Hải Sa Phái Cự Kình Bang Cao Thủ Phu Nhân Dương Đỉnh Thiên Quang Minh Tả hữu sứ giả Dương Tiêu, Phạm Dao Tứ đại pháp vương Đại Ỷ Ty, Ân Thiên Chính, Tạ Tốn, Vi Nhất Tiếu. Ngũ Tản Nhân Bành Oánh Ngọc, Chu Điên, Thiết quan đạo nhân, Bố đại hòa thượng. Ngũ Hành Kỳ kỳ chủ Thiên ưng kỳ Ân Dã Vương, Ân Tố Tố, Lý Thiên Viên. Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách, Hạc Bút Ông. Hỗn Nguyễn Tích Lịch Thủ Viên Chân/Thành Côn. Kim Cương Môn A Đại, A Nhị, A Tam, Cương Tướng. Thần Tiễn Bát Hùng Thập Bát Kim Cang. Nhân vật khác Dương Bất Hối, Tiêu Chiêu, Hồ Thanh Ngưu, Hàn Lâm Nhi, Chu Nguyên Chương, Thường Ngộ Xuân. Ô Vương A Phổ, Thọ Nam Sơn Chuyển thể Phim điện ảnh Năm Hãng sản xuất Trương Vô Kỵ Triệu Mẫn Chu Chỉ Nhược Quốc gia Thông tin thêm 1963 Công ty điện ảnh Nga My Hồng Kông Đạo diễn, biên kịch Trương Anh, Trương Anh vai Trương Thúy Sơn, Bạch Yến vai Ân Tố Tố, Thạch Kiên vai Tạ Tốn 1965 Công ty điện ảnh Nga My Lâm Gia Thanh Trần Hảo Cầu Trần Bảo Châu Hồng Kông Đạo diễn, biên kịch Dương Công Lương, Lý Hồng vai Tiểu Chiêu 1967 Thiệu Thị huynh đệ Hồng Kông Diễn viên chính Trương Dực, Trịnh Bội Bội, Thư Bội Bội 1976 Thiệu Thị huynh đệ Hồng Kông Diễn viên chính Nhạc Hoa, La Liệt, Tỉnh Lợi 1978 Thiệu Thị huynh đệ Nhĩ Đông Thăng Tỉnh Lợi Dư An An Hồng Kông Văn Tuyết Nhi vai Ân Ly, Cố Quan Trung vai Tống Thanh Thư 1984 Thiệu Thị huynh đệ Nhĩ Đông Thăng Hồng Kông 1993 Công ty điện ảnh Vĩnh Thịnh Lý Liên Kiệt Trương Mẫn Lê Tư Hồng Kông Đạo diễn Vương Tinh. Khâu Thục Trinh vai Tiểu Chiêu, Trâu Triệu Long vai Tống Thanh Thư, Hồng Kim Bảo vai Trương Tam Phong, Ngô Trấn Vũ vai Trương Thúy Sơn, Trương Mẫn Phân vai Ân Tố Tố Phim truyền hình Năm Hãng sản xuất Trương Vô Kỵ Triệu Mẫn Chu Chỉ Nhược Quốc gia Chủ nhiệm sản xuất Số tập Thông tin thêm 1978 TVB Trịnh Thiếu Thu Uông Minh Thuyên Triệu Nhã Chi Hồng Kông Trần Vũ Siêu, Chiêu Chấn Cường 25 1984 TTV Lưu Đức Khải Lưu Ngọc Phác Dụ Khả Hân Đài Loan 17 1986 TVB Lương Triều Vĩ Lê Mĩ Nhàn Đặng Tụy Văn Hồng Kông Vương Thiên Lâm 40 Xem Ỷ Thiên Đồ Long Ký phim 1986 1994 TTV Mã Cảnh Đào Diệp Đồng Châu Hải My Đài Loan Lại Thủy Thanh 64 2000 TVB Ngô Khải Hoa Lê Tư Xa Thi Mạn Hồng Kông Trang Vĩ Kiến 42 Xem Ỷ Thiên Đồ Long Ký phim 2000 2003 Công ty sản xuất âm thanh trung tâm Á Châu Bắc Kinh Tô Hữu Bằng Giả Tịnh Văn Cao Viên Viên Trung Quốc, Đài Loan, Singapore Lại Thủy Thanh 40 Xem Ỷ Thiên Đồ Long Ký phim 2003 2009 Hoa Nghị huynh đệ Đặng Siêu An Dĩ Hiên Lưu Cạnh Trung Quốc Trương Kỷ Trung 40 Xem Ỷ Thiên Đồ Long Ký phim 2009 2019 Công ty Hoa Hạ cùng với Cánh Cụt ảnh thị hợp tác sản xuất Tăng Thuấn Hy Trần Ngọc Kỳ Chúc Tự Đan Trung Quốc Tưởng Gia Tuấn 50 Xem Ỷ Thiên Đồ Long Ký phim 2019 Xem thêm Anh hùng xạ điêu Thần điêu đại hiệp Ỷ Thiên Đồ Long Ký phim 2003 Tham khảo Liên kết ngoài TemplateXạ điêu tam bộ khúc Y Thể loạiTiểu thuyết nước ngoài có bản dịch tiếng Việt Thể loạiTiểu thuyết năm 1961 Thể loạiXạ điêu tam bộ khúc
Minh Giáo là 1 giáo phái trong Ỷ thiên đồ long ký. Tổng quan[] "Minh giáo nguyên từ nước Ba Tư, tên thật là Ma Ni giáo, truyền vào Trung thổ từ Diên Tải nguyên niên, đời Đường Võ Hậu. Thời đó người Ba Tư tên là Phí Đa Diên mang bộ Tam Tông Kinh của Minh giáo đến triều, là lần đầu tiên người Trung Quốc biết đến bộ kinh này. Ngày hai mươi chín tháng 6 năm thứ ba đời Đại Lịch nhà Đường, chùa Minh giáo Đại Vân Quang Minh được xây cất tại Lạc Dương, Trường An. Sau đó tại các thị trấn lớn như Thái Nguyên, Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu, Việt Châu cũng đều có Đại Vân Quang Minh tự. Tới năm Hội Xương thứ ba, triều đình ra lệnh giết giáo đồ, thế lực Minh giáo đại suy. Từ đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo không thể không hành sự ngụy bí, để rồi chữ Ma trong Ma Ni bị đổi thành Ma, đồng nghĩa với tà ma, người ngoài gọi là ma giáo." Minh giáo thờ thần lửa, lấy hành hiệp trượng nghĩa, cứu giúp dân lành làm tôn chỉ. Dưới triều đại giáo chủ đời thứ 33 là Dương Đính Thiên, Minh giáo nhiều nhân tài kẻ sĩ, khí đồ hưng vượng. Sau khi Dương Đính Thiên mất, Minh giáo nội bộ lục đục, bộ thuộc không ai cai quản vi phạm tôn chỉ làm nhiều điều càn rỡ, nên bị giang hồ võ lâm khinh ghét. Sau này Trương Vô Kỵ lên làm giáo chủ thứ 34, đã thống nhất quần hùng, hóa giải mọi hận thù với các đại môn phái. Minh giáo ngày càng mở rộng, thế lực hùng mạnh, góp công lớn đánh đổ nhà Nguyên. Chu Nguyên Chương cũng được nhắc đến trong truyện là thành viên Minh giáo.Tuy nhiên, sau khi lên ngôi hoàng đế ông hạ chiếu nghiêm trị tất cả những giáo đồ Minh giáo. Ai tham gia giáo phái này đều bị xử trảm. Minh giáo ngày càng suy yếu, đến cuối đời Minh đầu đời Thanh đã hoàn toàn biến mất. Tổ chức[] Cấp cao nhất, thống lĩnh giáo phái Giáo chủ Dương Đính Thiênđời 33 Trương Vô Kỵ đời 34 Phó Giáo chủTrong Di thư của Dương Đỉnh Thiên, Tạ Tốn được đề cử chức vụ Phó giáo chủ. Quang Minh tả hữu sứ Quang Minh tả sứDương Tiêu Quang Minh hữu sứPhạm Dao Hộ giáo pháp vương Đại Ỷ Ty Ân Thiên Chính Tạ Tốn Vi Nhất Tiếu Ngũ tản nhân Thuyết Bất Đắc Chu Điên Lãnh Khiêm Bành Oánh Ngọc Trương Trung Ngũ Hành Kỳ Nhuệ Kim KỳNhuệ Kim Kỳ có tài rèn đúc vũ khí sau này đã rèn lại Đồ Long đao. Vũ khí thường sử dụng là thương giáo, đao búa, cung tên. Cự Mộc Kỳ Cự Mộc Kỳ có tài chặt gỗ, xẻ cây, vũ khí sử dụng là những cây gỗ lớn bịt sắt lập thành trận pháp, đánh theo lối "công thành". Thường Ngộ Xuân là người trong Cự Mộc Kỳ. Hồng Thủy KỳHồng Thủy Kỳ thiên về sử dụng nước, lúc lâm địch thì phun nước có pha chất độc. Chu Nguyên Chương và Từ Đạt là người trong Hồng Thủy Kỳ. Liệt Hỏa KỳLiệt Hỏa Kỳ chuyên về sử dụng lửa, thường mang theo dầu lửa, lưu hoàng hỏa thạch, các chất dễ cháy để tấn công kẻ địch. Hậu Thổ Kỳ Hậu Thổ Kỳ có tài đào hầm lấp đất, thuật độn thổ không ai sánh kịp. Thiên Địa Phong Lôi tứ môn Thiên Tự Môn là nam giáo chúng Trung Nguyên. Địa Tự Môn là nữ giáo chúng,. Phong Tự Môn là người tu hành Thích gia, Đạo gia. Lôi Tự Môn là người thuộc phiên bang, Tây Vực. Võ công[] Càn Khôn Đại Na Di Thánh Hỏa Lệnh Thần Công
Advertisement Wiki Lồng Tiếng 376pages Explore Main Page Discuss All Pages Community Interactive Maps Recent Blog Posts Nội dung chính Về diễn viên lồng tiếng Về các bộ phim lồng tiếng Phim truyện Phim hoạt hình Phim điện ảnh Chỗ thử Admin Thành viênLữ Khách trong Phim truyền hình, Phim truyện Sửa đổi Sửa mã nguồn Xem lịch sử Thảo luận 0 Ỷ thiên đồ long ký tựa gốc 倚天屠龍記 Phân vai[] Diễn viên Vai diễn Lồng tiếng Việt Lương Triều Vỹ Trương Vô Kỵ Thế Thanh Lê Mỹ Nhàn Triệu Mẫn Huỳnh Hoa Đặng Tụy Văn Chu Chỉ Nhược Bích Ngọc Nhậm Đạt Hoa Trương Thúy Sơn Thế PhươngThế Thanh Tập 7 - 9 Trịnh Du Linh Ân Tố Tố Thanh Phúc Tằng Giang Tạ Tốn Nguyễn VinhBá Nghị Tập 12 Thiệu Mỹ Kỳ Tiểu Siêu Thanh Phúc Lê Hán Trì Dương Tiêu Nguyễn VinhThế Phương Tập 11 - 26 Hà Thụ Sân Tống Thanh Thư Bá Nghị Đới Chí Vỹ Ân Lê Đình Bá NghịThế Thanh Tập 40 Đào Đại Vũ Phạm Dao Bá NghịThế Thanh Tập 40 Long Thiên Sinh Du Liên Chu Nguyễn VinhThế Phương Tập 25 - 26 Liêu Khải Trí Du Đại Nham Nguyễn Vinh Thế Phương Tập 24 Lý Thụ Giai Mạc Thanh Cốc Thế Thanh Ngải Uy Trương Tùng Khê Bá Nghị Trần An Oánh Hân Ly Bích Ngọc Dung Huệ Vân Kỷ Hiểu Phù Bích Ngọc Ngô Thiện Vy Dương Bất Hối Huỳnh Hoa Bào Phương Trương Tam Phong Thế Thanh Huỳnh Doãn Tài Tống Viễn Kiều Thế Thanh Lưu Giang Viên Chân / Thành Côn Nguyễn VinhThế Thanh Tập 25 - 26 Lý Hương Cầm Diệt Tuyệt sư thái Thanh Phúc Lưu Triệu Minh Dương Đỉnh Thiên Bá Nghị Ngô Gia Lệ Dương phu nhân Thu Hương Thể loại Thể loại Phim truyền hình Phim truyện Community content is available under CC-BY-SA unless otherwise noted. Advertisement Fan Feed More Wikia Lồng Tiếng 1 Thám tử lừng danh Conan 2 Duyên tình Tây Sương 3 Đặng Hoàng Khuyết
truyện ỷ thiên đồ lông ký wiki