truyện ngắn việt nam sau 1975

GIỚI THIỆU SÁCH MỚI: VĂN HOÁ VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM. Của. Nguyễn Hưng Quốc . Trích từ Lời nói đầu: "Ở Việt Nam, từ trước đến nay, chúng ta bàn nhiều về văn chương cũng như về văn hoá, nhưng lại ít khi đề cập đến văn hoá văn chương, cho dù, theo tôi, việc nghiên cứu văn hoá văn chương có thể giúp chúng ta Đông Hải Liệt Quốc tân truyện: Mẹ cổ tích và câu chuyện Biển Đông-Đông Hải. Kết thúc trận biên giới 1979, "Đại Hán" Đặng Tiểu Bình không thể "dạy cho Việt Nam một bài học", như y đã huênh hoang tuyên bố. Đặng phải rút quân về nước sau khi trả thù Hương Quê gồm 23 truyện ngắn thấm đẫm hương vị Nam bộ của nhà văn Sơn Nam, từng được in trên tạp chí cùng tên trước năm 1975, của hội Khuyến nông miền Nam.Các truyện ngắn trong Hương Quê thường bắt đầu bằng một chi tiết hoặc hình ảnh rất đỗi bình thường, sau Việt Nam Thế Giới Tham Luận Tài Liệu Truyện Ngắn. Truyện Ngắn. Ông Giáo Sáng Mắt Muộn - Trần Bạch Thu AirForce Echo August 16, Mai Vẫn Nở Trên Điêu Tàn Của Huế Trần Văn Thuận ---oo0oo--- Sau gần hai tháng giao tranh đẫm máu, cố đô Huế đã được… Những truyện ngắn sáng tác sau 1975 được kể bởi nhiều NKC xưng "tôi" với ĐNĐaT của họ đã góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trong thời kì mới. Họ xứng đáng là đại diện cho thế hệ "mở đường" của nền văn học Việt Nam sau 1975 với vai trò tạo "nền tảng" cho những cách tân, đổi mới của các cây bút thế hệ sau. Số liệu người tỵ nạn Việt Nam từ sau ngày 30 tháng 4/1975 1. Tháng 6-1975 đến 1979: 311.400. Ðường bộ có 14.600 qua ngả Campuchia, Thái Lan. Tổng cộng 326.000.[cần dẫn nguồn] 2. 1980 đến 1984: 242.000 thuyền nhân và 11.000 tỵ nạn đường bộ. Tổng cộng đợt 2 là 253.100.[cần dẫn nguồn] 3. 1985 đến 1989: 186.500 thuyền nhân và đường bộ 10.500. Cashberry Lừa Đảo. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Phương Thảo TRUYỆN NGĂN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 VIẾT VỀ CHIẾN TRANH Chuyên ngành Lí luận văn học Mã số 62 22 01 20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 1 Công trình được hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học Trần Khánh Thành Phản biện 1 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Phản biện 2 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Phản biện 3 . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . . . . . Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp ….. họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .. . . . . Vào hồi giờ ngày tháng năm 20... Có thể tìm hiểu luận án tại - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội 2 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN [1]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2013, “Diện mạo truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh của Nguyễn Minh Châu trong hai thời kỳ sáng tác”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, số 3 + 4, tr. 52 - 53 và 72. [2]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2014, “Truyện ngắn về chiến tranh qua các cuộc thi trên Văn nghệ Quân đội đầu thế kỉ XXI”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 810 và 81, tr. 162 – 167. [3]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Cảm hứng nhân bản trong truyện ngắn Việt Nam viết về chiến tranh sau 1975”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 839, tr. 91 - 96. [4]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Yếu tố giấc mơ và kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam đương đại viết về chiến tranh”, Tạp chí Lí luận Phê bình Văn học, nghệ thuật, số 44, tr. 60 – 64. [5]. Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Nhân vật người lính trong truyện ngắn Việt Nam đương đại”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 382, tr. 82 – 85. 3 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Hiện nay, những công trình nghiên cứu về đề tài truyện ngắn chiến tranh chưa nhiều. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn hoặc một mục nhỏ của công trình, các vấn đề được đặt ra rải rác,diện khảo sát thường hẹp về số lượng tác phẩm. Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975 dưới một số góc độ nội dung và nghệ thuật, chúng tôi hi vọng sẽ đem lại cái nhìn tương đối toàn diện về mảng truyện ngắn này với nhiều giá trị đặc sắc còn tiềm ẩn. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên cơ sở khảo sát nghiên cứu truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranhtrong sự so sánh đồng đại với truyện ngắn nói chung, với tiểu thuyết về chiến tranh…và sự so sánh lịch đại truyện ngắn chiến tranh giai đoạn trước 1975, luận án muốn tìm ra những đặc điểm, yếu tố kế thừa và cách tân của truyện ngắn khi viết về đề tài chiến tranh. Nhiệm vụ Qua việc tổng hợp tư liệu, luận án sẽ làm sáng rõ những vấn đề lí luận cơ bản về sự thay đổi tư duy nghệ thuật, một số yếu tố thi pháp đặc trưng thể loại truyện ngắn và phân tích cụ thể trong sáng tác về chiến tranh. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng Một số phương diện quan trọng về nội dung, nghệ thuật, đặc điểm của truyện ngắn viết về chiến tranh nhìn từ thời bình. Sự thay đổi cách nhìn hiện thực, thế giới nhân vật đa chiều, những đặc sắc trong phương thức biểu hiện của truyện ngắn chiến tranh đương đại. 4 Phạm vi Luận án nghiên cứu những tác phẩm tiêu biểu trong các tuyển tập truyện ngắn hay về chiến tranh, truyện ngắn hay và đoạt giải Tạp chí Văn nghệ quân đội được tuyển chọn từ 1975 đến năm 2016. Bên cạnh đó là truyện ngắn về chiến tranh của các tác giả tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu,Bảo Ninh, Sương Nguyệt Minh, Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Võ Thị Hảo, Trần Thanh Hà, Vũ Thị Hồng...Đồng thời, luận án cũng đề cập đến những truyện ngắn gần đây về chiến tranh trong phạm vi mà tác giả cập nhật được. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện, luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau phương pháp lịch sử- xã hội, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp loại hình, phương pháp nghiên cứu liên ngành 5. Đóng góp mới của luận án Qua việc tìm hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 về chiến tranh, luận án bổ sung một cách nhìn truyện ngắn đương đại. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn khảo sát tác phẩm, luận án đánh giá tác động của sự thay đổi bối cảnh hiện thực và tư tưởng, quan niệm nghệ thuật đến truyện ngắn về chiến tranh. Luận án chỉ ra những nét đặc trưng, kế thừa và cách tân trên một số phương diện nghệ thuật cơ bản của truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ và giọng điệu. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được tổ chức thành bốn chương như sau Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Hiện thực chiến tranh với những hướng tiếp cận mới 5 Chương 3. Các loại hình nhân vật chủ yếu Chương 4. Những phương thức nghệ thuật đặc sắc 6 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đặc trưng thể loại truyện ngắn Khái niệm Một số đặc trưng của truyện ngắn hiện đại Phương thức chiếm lĩnh hiện thực của truyện ngắn không phải là hướng đến toàn bộ sự đầy đặn toàn vẹn như tiểu thuyết mà chỉ tập trung đặc tả một hiện tượng, một nét bản chất của con người, một khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống. Truyện ngắn có đặc trưng riêng về dung lượng, kết cấu, cốt truyện, tình huống, chi tiết... Văn học chiến tranh- từ những góc nhìn Từ góc nhìn của một số tác giả nước ngoài và nhìn về phía văn học Mỹ Với một đề tài mang tính nhân loại, văn học về chiến tranh nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu nước ngoài giới thiệu ở Việt Nam. Qua đó có thể thấy nhiều vấn đề, quan điểm tương đồng và có ý nghĩa như bài học kinh nghiệm. Điểm nổi bật là khẳng định vị trí, sức hấp dẫn của đề tài chiến tranh và đặt vấn đề phải viết như thế nào để nói lên được tầm vóc của cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, tâm thế của con người trong và sau chiến tranh. Một số bài viết khác đề cập đến những sáng tác của những tác giả Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam cho rằng từ thập kỷ 1970 đến nay cuộc chiến tranh trở thành đề tài lôi cuốn nhiều người cầm bút ở Mỹ trên nhiều thể loại. Từ những ý kiến phê bình trong nước Dựa trên nhiều khuynh hướng lí thuyết với các tiêu chuẩn giá trị, sự đánh giá khác nhau, một hướng nghiên cứu phổ biến là đặt truyện ngắn về đề tài chiến tranh trong văn xuôi chiến tranh. Có thể thấy 7 mảng văn học viết về đề tài chiến tranh được nghiên cứu phê bình trên nhiều bình diện, tập trung vào vị trí của đề tài, lực lượng viết, sự thay đổi cách tiếp cận đề tài cho phù hợp với cuộc sống đương đại và cái nhìn dân chủ sau chiến tranh. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn sau năm 1975 viết về chiến tranh Những nghiên cứu về truyện ngắn sau 1975 nói chung Bên cạnh những bài viết khái quát, một số tác giả đi sâu vào vấn đề cụ thể như cảm hứng nữ quyền, truyện ngắn lịch sử, văn xuôi mạng…Những bài viết này thường xuất phát từ một vài phương diện để cắt nghĩa, giải mã những độc đáo trong sáng tác của một tác giả hay một tác phẩm, tập truyện nào số tác giả chọn cách tiếp cận truyện ngắn đương đại từ áp dụng các lí thuyết phê bình phương tây.. Các bài viết chủ yếu bàn về một số khía cạnh của truyện ngắn trong sự vận động của thể loại. Những luận án nghiên cứu truyện ngắn thường chọn một số vấn đề cơ bản để làm rõ, đó cũng là sự gợi mở cho các công trình nghiên cứu khác. Những đổi mới của truyện ngắn từ sauu 1975 về chiến tranh Một số nhà nghiên cứu chỉ ra những đổi mới về tư duy nghệ thuật biểu hiện qua đề tài, xây dựng nhân vật... Do khuôn khổ của bài viết nên các tác giả thường tập trung giải quyết một cách thấu đáo một số khía cạnh đổi mới của truyện ngắn chiến tranh. Đó cũng là vấn đề để ngỏ. Bên cạnh những bài phê bình đề cập trực tiếp đến truyện ngắn chiến tranh, cũng có một số nhà phê bình bàn về những tác phẩm, nhà văn cụ thể viết về đề tài chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Từ Nguyên Tĩnh, Xuân Thiều...Cách nhìn này đem đến sự quan sát nhìn cụ thể về những tác giả, tác phẩm xuất hiện trên văn đàn, không phải cái nhìn khái quát về truyện ngắn chiến tranh. Đó cũng là gợi ý cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài này. Ngoài ra, bàn về văn xuôi nói 8 chung, truyện ngắn nói riêng về đề tài chiến tranh còn xuất hiện rải rác trong một số bài báo, tạp chí, luận văn khác nữa. Hiện tại, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về truyện ngắn từ sau 1975 đến nay về chiến tranh . Tiểu kết Đã có nhiều công trình, bài viết trong hơn bốn mươi năm qua bàn về lí luận truyện ngắn, văn xuôi, và truyện ngắn chiến tranh trong xu thế đổi mới chung của nền văn học. Các bài viết chủ yếu bàn đến một vài khía cạnh hoặc điểm qua vài nét về đặc điểm của truyện ngắn sau 1975 về chiến là một vấn đề còn để ngỏ, gợi mở cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết về chiến tranh. 9 CHƯƠNG 2 HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VỚI NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI Sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật và cảm hứng sáng tác Sau 1975, cùng với sự đổi mới tư duy, quan niệm về hiện thực cũng thay đổi. Hiện thực chiến tranh và hậu quả của nó được nhìn nhận một cách toàn diện sâu sắc. Quan niệm nghệ thuật về con người ngày càng toàn diện, dần chuyển từ con người công dân, chính trị sang con người cá thể được khai thác ở nhiều bình hứng lãng mạn dần được thay thế bằng cảm hứng nhân bản, nhân văn. Chiều sâu bản thể và tâm hồn con người được khai thác với trí tuệ, tư tưởng, tình cảm, bản năng, ý thức và vô thức, tâm linh... Điểm nổi bật trong truyện ngắn chiến tranh thời gian này là khắc hoạ hình tượng người lính cả từ hai chiến tuyến. Từ khuynh hướng sử thi chuyển sang khuynh hướng thế sự, đời tư Giai đoạn kháng chiến 1945-1975 ở Việt Nam là thời điểm đặc biệt sản sinh và nuôi dưỡng nền văn học sử thi. Thành công của khuynh hướng sáng tác này là đã kết tinh thành những truyện ngắn làm nổi bật chân dung những anh hùng, người con ưu tú và cộng đồng với lý tưởng chung. Sau năm 1975, nhà văn không chỉ hướng đến những vấn đề lịch sử chính trị mà còn khai phá những mảng hiện thực mới đặt ra của cuộc sống thời bình. Văn học đương đại Việt Nam về chiến tranh thiên về khai phá những mặt còn khuất lấp, những vấn đề đời tư - thế sự, hướng đến cuộc sống đa trị và qua đó thể hiện cảm quan của nhà văn. Khám phá hiện thực, con người trong tính đa dạng, đa diện Biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng 10 Với tâm thế của người viết đương thời, biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tiếp tục được phản ánh. Cùng với đó, sự xuất hiện của nhiều truyện ngắn viết về cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, của quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cămpuchia và biên giới phía Bắc những năm sau 1975 là sự bổ sung làm nới rộng biên độ hiện thực. Hiện thực chiến tranh được biểu hiện không chỉ là những thời điểm khốc liệt của các trận chiến- nơi bộc lộ cái cao cả và cái thấp hèn mà còn là hiện thực số phận con người cụ thể trong và sau chiến tranh. Khai thác đời sống bên trong của con người Trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh, nhà văn không chỉ phản ánh hiện thực, con người thực với những điều hiện hữu, dễ nắm bắt, định danh mà còn khai thác thế giới vô thức giấc mơ, đan cài vào hiện thực là thế giới của những điều kỳ ảo và tâm linh để kiến tạo những ngả đường khác nhau đến với đề tài này. Chiến tranh không chỉ giản đơn là dòng hồi ức hay khoảnh khắc khó quên nào đó mà là những câu chuyện trong thế giới nhiều chiều, khó đoán biết. Nhiều truyện ngắn thấp thoáng thế giới ảo như Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Họ đã trở thành đàn ông Phạm Ngọc Tiến, Tiếng vạc sành Phạm Trung Khâu... Truyện ngắn chiến tranh khai thác con người với bản năng sống, trạng thái vô thức và tâm linh . Có thể thấy tinh thần đó trong nhiều truyện Giấc mơ kí ức Phan Đức Nam, Rửa tay gác kiếm Bảo Ninh, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Những giấc mơ có thực Vũ Thị Hồng... Với đề tài chiến tranh, nhiều nhà văn hướng đến thế giới tâm linh để biểu đạt con người toàn diện hơn. Có thể nhận thấy điều đó trong nhiều truyện ngắn như Chuyến xe đêm Ma Văn Kháng, Tiếng chuông chiều Lê Hoài Lương, Bến trần gian Lưu Sơn Minh... Tuy nhiên, đó không phải là con đường duy nhất để khai thác đề tài chiến tranh. Việc miêu tả thế giới với những điều kỳ ảo, vô thức, tâm linh cũng cần đến một 11 nhãn quan tỉnh táo, chừng mực để tránh sa đà, dẫn tác phẩm tới “ly kỳ rùng rợn” hoặc cổ vũ mê tín dị đoan. Tiểu kết Từ sau giải phóng, truyện ngắn chiến tranh đã có sự bứt phá, thay đổi để tìm đến những hướng tiếp cận mới. Sự thay đổi hệ hình tư duy từ sử thi sang tiểu thuyết là bước ngoặt chi phối đời sống văn chương nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Từ đó thay đổi phương hướng sáng tạo, xây dựng nhân vật và tổ chức các thành tố của truyện. Chính vì vậy, trong hai thời kỳ lịch sử khác nhau, truyện ngắn đề tài chiến tranh mang diện mạo riêng. Điều này phản ánh tâm thức sáng tạo và tiếp nhận trong bối cảnh hiện thực cụ thể, phù hợp với lôgic vận động của đời sống văn học. Nhà văn đương đại đã chủ động tìm những ngả đường khác nhau mở rộng đường biên phản ánh hiện thực. Đề tài chiến tranh khi nhìn từ thời bình không còn giới hạn trong phạm vi hẹp cả về tư tưởng và trường phản ánh. Vì vậy, từ sau 1986, đặc biệt là những năm 90, truyện ngắn chiến tranh “nở rộ” với sự phong phú về số lượng, đa dạng về phong cách, mới mẻ và khách quan trong xử lý chất liệu chiến tranh. Hiện thực và con người dần hiện lên với bề rộng và chiều sâu, khác với tác phẩm giai đoạn trước. 12 CHƯƠNG 3 CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT CHỦ YẾU Loại hình học và loại hình nhân vật văn học Loại hình học Phương pháp tiếp cận vấn đề văn học theo loại hình giúp khu biệt một cách tương đối các hiện tượng trong mối quan hệ với hệ thống, tổng thể, từ đó đưa ra những nhận định theo nhóm có chung đặc điểm. Với vấn đề nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh, chúng tôi chọn hướng tiếp cận này như một cách thức để đưa ra những kiến giải về các kiểu nhân vật trong truyện ngắn đương đại về chiến tranh. Cách phân loại nhân vật theo loại hình Tuỳ theo tiêu chí phân loại khác nhau mà có thể tìm thấy những loại nhân vật có sự tương đồng về một mặt nào đó. Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, thế giới nhân vật rất phong phú đa dạng. Chúng tôi chọn cách phân loại nhân vật dựa trên tiêu chí vai trò của nhân vật trong tác phẩm kết hợp với tiêu chí giới tính, lứa tuổi, mức độ ảnh hưởng của chiến tranh đối với họ. Từ đó luận án tập trung khảo sát một số kiểu loại nhân vật chủ yếu được khắc hoạ đậm nét trong truyện ngắn chiến tranh đương đại. Các loại hình nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh Thế giới nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, viết về chiến tranh khi nó đã kết thúc, có nhiều nhân vật ở mọi lứa tuổi, giới tính là những người của cuộc sống hoà bình, thường ngày. Họ hầu như không tham gia chiến tranh mà xuất hiện trong truyện với tư cách người kể chuyện, những nhân vật phụ làm bối cảnh cho tuyến truyện chính. 13 Trong khuôn khổ đề tài, chúng tôi chọn và đi sâu khảo sát hai kiểu nhân vật tiểu biểu là người lính và người phụ nữ. Họ thường là nhân vật chính, nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Nhân vật người lính Nhân vật đa diện Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, người lính được khắc hoạ đa chiều hơn với cá tính riêng, số phận đời tư, nhiều gương mặt khác nhau bên trong một con người. Đó là Trí Hai người trở lại trung đoàn – Thái Bá Lợi , vị tướng Ai biết mộ liệt sĩ ở đâu? - Văn Chinh, Lâm Truyền thuyết về Quán Tiên - Xuân Thiều... Không còn là sản phẩm của tinh thần lý tưởng hoá cao độ, họ hiện lên với cả sai lầm, thiên kiến cá nhân, khoảnh khắc hèn nhát, bản năng lấn át lí trí... Việc nhà văn “đặc tả” con người ở nhiều chiều kích một cách khách quan dẫn đến sự xuất hiện của nhân vật “lưỡng diện”, “đa trị” trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Nhân vật tự ý thức - Ý thức về hoàn cảnh của mình Người lính được xây dựng trong tâm thế tự ý thức về cảnh ngộ của mình để sống và vượt lên nghịch cảnh sau chiến tranh. Dù gặp những mất mát, thiệt thòi nhưng hình tượng người lính vẫn đem đến cho người đọc sự khâm phục, cảm động khi họ biết vượt qua những bi kịch cá nhân để khẳng định phẩm chất- lí tưởng sống của mình. Đó là Lực Cỏ lau- Nguyễn Minh Châu, “anh” Đêm nguyệt thực- Trung Trung Đỉnh, Thao Miền cỏ hoang- Trần Thanh Hà... Kiểu nhân vật này chiếm số lượng lớn, là sản phẩm tất yếu của sự đổi mới tư duy nghệ thuật. - Ý thức về sai lầm của mình để tự thú, sám hối 14 Tự ý thức còn là trạng thái tinh thần để con người chiêm nghiệm, suy ngẫm lại hành động của mình. Phần lớn họ là người lính bên kia chiến tuyến chúng tôi trình bày ở phần sau. Bên cạnh đó, có cả nhân vật tự thú là người lính cách mạng như “người khách” Hồn cát - Nguyễn Hiê êp, Lực Cỏ lau và hoạ sĩ Bức tranh của Nguyễn Minh Châu. Xây dựng nhân vật này thể hiện sự nhạy cảm của nhà văn về trạng thái tâm lí đầy ám ảnh của con người sau chiến tranh, dù đó là ai, đứng ở vị trí nào. Nhân vật cô đơn Bên cạnh và đối lập với kiểu nhân vật vượt lên trên nghịch cảnh là những nhân vật không dung hoà được với cuộc sống sau chiến tranh. Mang theo những điều còn mất từ chiến tranh, nhiều người rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lõng giữa cộng đồngvà thời cuộc. Đó là tướng Thuấn Tướng về hưu- Nguyễn Huy Thiệp, Châu Bóng ma đói quê hương- Vũ Bão, Mộc Trại “Bảy chú lùn”- Bảo Ninh.. Môtip người lính cô đơn đã trở thành mẫu hình phổ biến trong văn học sau 1975, làm phong phú bức tranh chân dung người lính. Họ là sự phản chiếu đời sống sau chiến tranh. Nhân vật tha hoá Cùng với đổi mới tư duy và nhu cầu “nói thật”, hình tượng con người bị tha hóa đã xuất hiện nhiều trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Bởi chiến tranh không chỉ là nơi khẳng định của những anh hùng mà còn là nơi phân biệt những kẻ hèn nhát, phản bội, nhỏ nhen. Sự biến chất, tha hoá này là vấn đề được khai thác trong cả tiểu thuyết và truyện ngắn như một vấn nạn cần phê phán và cảnh giác. Đó là Sức Anh Sức- Khuất Quang Thụy, Quang Cơn giông-Nguyễn Minh Châu, Lê Mãnh Nanh sấu- Sương Nguyệt Minh... 15 Người anh hùng, người lính dưới góc nhìn của nhà văn trở nên chân thực, sinh động hơn, bởi nó gần với đặc tính cố hữu của con người, không phải là một chiều thánh thiện. Nhân vật người lính bên kia chiến tuyến Cùng với sự thay đổi quan niệm về đề tài chiến tranh, về con người, trong văn học đã có cái nhìn khách quan hơn dành cho những người phía “đối phương”. Họ cũng chỉ là công cụ của kẻ xâm lược trong cuộc chiến, có thể bị hủy diệt bất cứ lúc nào vì toan tính của nhà cầm quyền, nhiều người bị xô đẩy vào cuộc chiến và rơi vào bi kịch. Đó là Phúc Thời tiết của ký ức- Bảo Ninh, John Smith Chú lùn thứ bảy- Lưu Sơn Minh, Huỳnh và Phấn Đất ấm- Đỗ Văn Nhâm...Nhân vật người lính “bên kia” còn được phác hoạ với vẻ đẹp nhân bản. Dù phải làm nhiệm vụ trong hàng ngũ địch nhưng họ cũng có cảm xúc, tình cảm, lòng trắc ẩn... như mọi con người bình thường. Đó là Benla Cây số 42- Dũng Hà, Xơn Ông Ba Rạch Đùng- Dương Đức Khánh... Hệ thống nhân vật này phản chiếu tư duy “nhận thức lại lịch sử” một cách khách quan, bao dung, nhân văn khi tiếp cận đề tài chiến tranh. Vì vậy, họ đã “điền vào” vào khoảng trống mà giai đoạn trước truyện ngắn còn để ngỏ. Nhân vật người phụ nữ Nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi Môtip nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi xuất hiện khá nhiều trong truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975. Điểm chung của họ là chờ đợi thời gian quá dài, thậm chí hơn nửa đời người, họ vẫn luôn giữ mối chung tình với người đi xa dù có thể còn chưa một lời thề nguyền hẹn ước. Đó là Ân và Mật trong Hai người đàn bà xóm trại Nguyễn Quang Thiều, cô gái ở làng chiến khu Giếng trong – Lê Tuấn Hiển, Hai Mật Trên mái nhà người phụ nữ - Dạ Ngân.. Họ tạo thành hệ thống nhân vật “ vọng phu” nhiều dáng vẻ, điển hình 16 cho nhân cách, phẩm chất, cách ứng phó với cuộc sống sau chiến tranh của không ít phụ nữ Việt Nam. Nhân vật phụ nữ với bi kịch chiến tranh Truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh tiếp cận con người ở số phận cá nhân, người phụ nữ mang bi kịch mất con, trở thành người đàn bà goá bụa hoặc chịu thương tật di chứng chiến tranh,không được làm mẹ... Đó là người bà Nắng chiều- Thụy Anh, bà cụ Lăng Bến trần gian- Lưu Sơn Minh , mẹ của tôi Chuyện xưa kết đi, được chưa?- Bảo Ninh. Họ được tô đậm ở đức tính hi sinh, tình cảm sâu nặng, nghị lực kiên cường và cả sự yếu đuối vốn dĩ của giới nữ. Kiểu nhân vật này gắn với cảm hứng bi kịch, tinh thần dân chủ, nhìn thẳng vào sự thật, truyện ngắn tiếp cận con người cả ở góc độ mất mát, bất hạnh trong cuộc sống do tác động của chiến tranh. Tuổi trẻ, nhan sắc, sức sống đã hao mòn bởi thời gian và chiến tranh cùng với nếp sống tình cảm, sự chi phối của dư luận cộng đồng khiến họ gặp nhiều trắc trở tình duyên và nhiều người thậm chí sống đơn độc phần đời còn lại. Con người mang theo khuyết thiếu, vết thương tâm hồn, tình cảm là một vấn đề lớn sau chiến tranh. Nhân vật phụ nữ tha hoá Trong cách tiếp cận hiện thực và con người đa diện, người phụ nữ còn được khắc hoạ khi bị chiến tranh kéo dài đẩy vào tình cảnh éo le, trở thành người bội bạc, chung chạ với nhiều người. Kiểu nhân vật này không có trong văn học giai đoạn trước. Tuy nhiên, cái nhìn trong truyện ngắn thời kỳ này với họ thường là bao dung bởi họ cũng là nạn nhân của chiến tranh, nhiều khi do hoàn cảnh, họ cũng có những khát khao rất đỗi thường tình của con người. Đó là nhân vật vợ Quang Rửa tay gác kiếm- Bảo Ninh, Diệu Nương Gió dại- Bảo Ninh, Diễm Thuý Đỉnh khói- Nguyễn Thị Kim Hòa, Thoải Thím Thoải- Hạnh Lê... 17 Soi chiếu qua thân phận người phụ nữ, truyện ngắn sau 1975 hướng đến tận những góc khuất thầm kín, khát vọng bản năng, những vấp ngã đời thường. Bên cạnh đó, họ vẫn toát lên đặc trưng nếp nghĩ, phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Tiểu kết Nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh đương đại được thêm vào những chân dung, kiểu loại gắn với cái nhìn từ hoà bình. Nhân vật người lính thời kỳ này đã được tập trung thể hiện với tinh thần khách quan, nhân bản. Viết về sự đa dạng trong tính cách, những chấn thương, bi kịch là kết quả của lối tư duy nghệ thuật mới. Điều đó không có nghĩa là phủ nhận kiểu nhân vật người lính anh hùng của giai đoạn trước mà là sự bổ sung, làm đầy đủ hơn loại nhân vật này. Bên cạnh đó, nhân vật phụ nữ là đối tượng được đặc biệt quan tâm trong văn học nói chung và truyện ngắn chiến tranh nói riêng. Nhìn từ hoà bình, chân dung họ hiện lên với những tổn thương đầy khắc khoải và cả những nhược điểm mang tính bảo thủ của người phụ nữ trong định kiến xã hội Việt Nam. Họ đáng được trân trọng, cảm thông bởi chiến tranh đi qua để lại những người phụ nữ với bi kịch lớn nhất là không có một gia đình trọn vẹn. 18 CHƯƠNG 4 NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT ĐẶC SẮC Tổ chức cốt truyện Khái niệm cốt truyện và vai trò của cốt truyện trong truyện ngắn Một số loại hình cốt truyện tiêu biểu Cốt truyện sự kiện - hành động Loại cốt truyện này chú trọng yếu tố “có chuyện”,biến cố, sự kiện, hành động của nhân vật phát triển tạo nên sự vận động của cốt truyện. Tuy nhiên, trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, dù truyện triển khai trên sự kiện, hành động là chủ yếu nhưng vẫn đan xen trong đó những chi tiết, tình tiết mới lạ, bất ngờ, biến cố liên tục tạo độ căng cho truyện, trình tự các sự kiện có thể bị đảo lộn chứ không nhất thiết trình bày theo trật tự trước sau như trong truyện truyền thống. Đồng thời, nhà văn sử dụng các yếu tố kỳ ảo, giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu hiện cảm nhận của con người hiện đại về đời sống trong và sau chiến tranh. Nhiều truyện có kiểu cốt truyện này như Kẻ sát nhân lương thiệnLại Văn Long Còn, Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Hai mươi năm sau Hồ Phương. Cốt truyện tâm lý Sau năm 1975, kiểu cốt truyện này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện ngắn, hướng đến thế giới hiện thực khó định hình và nắm bắt trong tâm hồn con người. Sự kiện được nhắc đến trong truyện không nhiều nhưng từ những chiếc “mắc treo” ấy, tác giả đã làm một hành trình xâm nhập, giãi bày những trạng huống cảm xúc diễn ra trong tâm hồn nhân vật trước hoàn cảnh, khám phá con người ở chiều sâu vô thức 19 và tâm linh trong và sau chiến tranh. Đây là kiểu cốt truyện của Bức chân dung của người đàn bà lạ Chu Lai, Dòng sông trinh nữ Sương Nguyệt Minh, Mỗi tháng có một rằm Lê Hoài Lương... Tiếp thu kiểu cốt truyện trữ tình, nhà văn đương đại vận dụng một cách nhuần nhuyễn và tinh tế trong cái nhìn hướng về số phận cá nhân con người sau chiến tranh. Cốt truyện dòng ý thức là một bước phát triển của cốt truyện tâm lý. Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, loại cốt truyện này chưa đạt đến mức “điển hình” nhưng đã xuất hiện một số tác giả sử dụng như một phương tiện tìm kiếm những nhận thức mới mẻ, sâu sắc về thế giới bên trong của con người. Có thể gặp kiểu cốt truyện này trong Sám hối Phùng Văn Khai, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Hoài vọng Văn Xương... Xu hướng tự do hoá cốt truyện Trong văn xuôi đương đại, người ta có thể nói đến sự “lỏng lẻo”, “thu nhỏ” cốt truyện, nhà văn không tuân theo nguyên tắc truyền thống để xây dựng cốt truyện. Một loại cốt truyện nữa tuy xuất hiện không nhiều nhưng cũng là thể nghiệm mới mẻ của nhà văn khi viết về chiến tranh, đó là cốt truyện mang yếu tố hậu hiện đại Chú lùn thứ bảy, Bến trần gian, Âm thanh của kí ức. Quan niệm mới trong văn học đương đại hướng đến một “hiện thực không hoàn kết”, không thể biết trước. Vì vậy, truyện ngắn chiến tranh có xu hướng chuyển đổi từ cách kết thúc đóng sang kết thúc mở và không có hậu, tạo ra sự bất ngờ, để lại nhiều dư âm, gợi mở. Việc tổ chức truyện ngắn với cốt truyện, đoạn kết một cách sáng tạo, độc đáo đem lại nhiều cách cảm nhận về đề tài chiến tranh, phù hợp với cảm thức của đời sống hiện đại. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện Vai trò của tình huống trong truyện ngắn 20 Ngày đăng 03/06/2016, 0949 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN Nguyễn Thị Phương Thảo TRUYỆN NGĂN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 VIẾT VỀ CHIẾN TRANH Chuyên ngành Lí luận văn học Mã số 62 22 01 20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 Công trình hoàn thành tại Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội Người hướng dẫn khoa học Trần Khánh Thành Phản biện 1 Phản biện 2 Phản biện 3 Luận án bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp … họp Vào hồi ngày tháng năm 20 Có thể tìm hiểu luận án tại - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN [1] Nguyễn Thị Phương Thảo 2013, “Diện mạo truyện ngắn viết đề tài chiến tranh Nguyễn Minh Châu hai thời kỳ sáng tác”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật Quân đội, số + 4, tr 52 - 53 72 [2] Nguyễn Thị Phương Thảo 2014, “Truyện ngắn chiến tranh qua thi Văn nghệ Quân đội đầu kỉ XXI”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 810 81, tr 162 – 167 [3] Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Cảm hứng nhân truyện ngắn Việt Nam viết chiến tranh sau 1975”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 839, tr 91 - 96 [4] Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Yếu tố giấc mơ kỳ ảo truyện ngắn Việt Nam đương đại viết chiến tranh”, Tạp chí Lí luận Phê bình Văn học, nghệ thuật, số 44, tr 60 – 64 [5] Nguyễn Thị Phương Thảo 2016, “Nhân vật người lính truyện ngắn Việt Nam đương đại”, Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 382, tr 82 – 85 MỞ ĐẦU Lí chọn đề tài Hiện nay, công trình nghiên cứu đề tài truyện ngắn chiến tranh chưa nhiều Trong khuôn khổ viết ngắn mục nhỏ công trình, vấn đề đặt rải rác,diện khảo sát thường hẹp số lượng tác phẩm Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975 số góc độ nội dung nghệ thuật, hi vọng đem lại nhìn tương đối toàn diện mảng truyện ngắn với nhiều giá trị đặc sắc tiềm ẩn Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích Trên sở khảo sát nghiên cứu truyện ngắn sau 1975 viết chiến tranhtrong so sánh đồng đại với truyện ngắn nói chung, với tiểu thuyết chiến tranh…và so sánh lịch đại truyện ngắn chiến tranh giai đoạn trước 1975, luận án muốn tìm đặc điểm, yếu tố kế thừa cách tân truyện ngắn viết đề tài chiến tranh Nhiệm vụ Qua việc tổng hợp tư liệu, luận án làm sáng rõ vấn đề lí luận thay đổi tư nghệ thuật, số yếu tố thi pháp đặc trưng thể loại truyện ngắn phân tích cụ thể sáng tác chiến tranh Đối tượng phạm vi nghiên cứu Đối tượng Một số phương diện quan trọng nội dung, nghệ thuật, đặc điểm truyện ngắn viết chiến tranh nhìn từ thời bình Sự thay đổi cách nhìn thực, giới nhân vật đa chiều, đặc sắc phương thức biểu truyện ngắn chiến tranh đương đại Phạm vi Luận án nghiên cứu tác phẩm tiêu biểu tuyển tập truyện ngắn hay chiến tranh, truyện ngắn hay đoạt giải Tạp chí Văn nghệ quân đội tuyển chọn từ 1975 đến năm 2016 Bên cạnh truyện ngắn chiến tranh tác giả tiêu biểu nhưNguyễn Minh Châu,Bảo Ninh, Sương Nguyệt Minh, Trung Trung Đỉnh, Chu Lai, Võ Thị Hảo, Trần Thanh Hà, Vũ Thị Hồng Đồng thời, luận án đề cập đến truyện ngắn gần chiến tranh phạm vi mà tác giả cập nhật Phương pháp nghiên cứu Trong trình thực hiện, luận án sử dụng số phương pháp nghiên cứu sau phương pháp lịch sử- xã hội, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp loại hình, phương pháp nghiên cứu liên ngành Đóng góp luận án Qua việc tìm hiểu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 chiến tranh, luận án bổ sung cách nhìn truyện ngắn đương đại Trên sở lý luận thực tiễn khảo sát tác phẩm, luận án đánh giá tác động thay đổi bối cảnh thực tư tưởng, quan niệm nghệ thuật đến truyện ngắn chiến tranh Luận án nét đặc trưng, kế thừa cách tân số phương diện nghệ thuật truyện ngắn sau 1975 viết chiến tranh cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ giọng điệu Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu kết luận, luận án tổ chức thành bốn chương sau Chương Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương Hiện thực chiến tranh với hướng tiếp cận Chương Các loại hình nhân vật chủ yếu Chương Những phương thức nghệ thuật đặc sắc CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Đặc trưng thể loại truyện ngắn Khái niệm Một số đặc trưng truyện ngắn đại Phương thức chiếm lĩnh thực truyện ngắn hướng đến toàn đầy đặn toàn vẹn tiểu thuyết mà tập trung đặc tả tượng, nét chất người, khoảnh khắc ngắn ngủi đời sống Truyện ngắn có đặc trưng riêng dung lượng, kết cấu, cốt truyện, tình huống, chi tiết Văn học chiến tranh- từ góc nhìn Từ góc nhìn số tác giả nước nhìn phía văn học Mỹ Với đề tài mang tính nhân loại, văn học chiến tranh nhận quan tâm nhà nghiên cứu nước giới thiệu Việt Nam Qua thấy nhiều vấn đề, quan điểm tương đồng có ý nghĩa học kinh nghiệm Điểm bật khẳng định vị trí, sức hấp dẫn đề tài chiến tranh đặt vấn đề phải viết để nói lên tầm vóc kháng chiến vĩ đại dân tộc, tâm người sau chiến tranh Một số viết khác đề cập đến sáng tác tác giả Mỹ chiến tranh Việt Nam cho từ thập kỷ 1970 đến chiến tranh trở thành đề tài lôi nhiều người cầm bút Mỹ nhiều thể loại Từ ý kiến phê bình nước Dựa nhiều khuynh hướng lí thuyết với tiêu chuẩn giá trị, đánh giá khác nhau, hướng nghiên cứu phổ biến đặt truyện ngắn đề tài chiến tranh văn xuôi chiến tranh Có thể thấy mảng văn học viết đề tài chiến tranh nghiên cứu phê bình nhiều bình diện, tập trung vào vị trí đề tài, lực lượng viết, thay đổi cách tiếp cận đề tài cho phù hợp với sống đương đại nhìn dân chủ sau chiến tranh Tình hình nghiên cứu truyện ngắn sau năm 1975 viết chiến tranh Những nghiên cứu truyện ngắn sau 1975 nói chung Bên cạnh viết khái quát, số tác giả sâu vào vấn đề cụ thể cảm hứng nữ quyền, truyện ngắn lịch sử, văn xuôi mạng…Những viết thường xuất phát từ vài phương diện để cắt nghĩa, giải mã độc đáo sáng tác tác giả hay tác phẩm, tập truyện số tác giả chọn cách tiếp cận truyện ngắn đương đại từ áp dụng lí thuyết phê bình phương tây Các viết chủ yếu bàn số khía cạnh truyện ngắn vận động thể loại Những luận án nghiên cứu truyện ngắn thường chọn số vấn đề để làm rõ, gợi mở cho công trình nghiên cứu khác Những đổi truyện ngắn từ sauu 1975 chiến tranh Một số nhà nghiên cứu đổi tư nghệ thuật biểu qua đề tài, xây dựng nhân vật Do khuôn khổ viết nên tác giả thường tập trung giải cách thấu đáo số khía cạnh đổi truyện ngắn chiến tranh Đó vấn đề để ngỏ Bên cạnh phê bình đề cập trực tiếp đến truyện ngắn chiến tranh, có số nhà phê bình bàn tác phẩm, nhà văn cụ thể viết đề tài chiến tranh như Nguyễn Minh Châu, Bảo Ninh, Từ Nguyên Tĩnh, Xuân Thiều Cách nhìn đem đến quan sát nhìn cụ thể tác giả, tác phẩm xuất văn đàn, nhìn khái quát truyện ngắn chiến tranh Đó gợi ý cho nghiên cứu đề tài Ngoài ra, bàn văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng đề tài chiến tranh xuất rải rác số báo, tạp chí, luận văn khác Hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu cách hệ thống, toàn diện truyện ngắn từ sau 1975 đến chiến tranh Tiểu kết Đã có nhiều công trình, viết bốn mươi năm qua bàn lí luận truyện ngắn, văn xuôi, truyện ngắn chiến tranh xu đổi chung văn học Các viết chủ yếu bàn đến vài khía cạnh điểm qua vài nét đặc điểm truyện ngắn sau 1975 chiến vấn đề để ngỏ, gợi mở cho lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 viết chiến tranh CHƯƠNG 2 HIỆN THỰC CHIẾN TRANH VỚI NHỮNG HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI Sự đổi quan niệm nghệ thuật thực người Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật cảm hứng sáng tác Sau 1975, với đổi tư duy, quan niệm thực thay đổi Hiện thực chiến tranh hậu nhìn nhận cách toàn diện sâu sắc Quan niệm nghệ thuật người ngày toàn diện, dần chuyển từ người công dân, trị sang người cá thể khai thác nhiều bình hứng lãng mạn dần thay cảm hứng nhân bản, nhân văn Chiều sâu thể tâm hồn người khai thác với trí tuệ, tư tưởng, tình cảm, năng, ý thức vô thức, tâm linh Điểm bật truyện ngắn chiến tranh thời gian khắc hoạ hình tượng người lính từ hai chiến tuyến Từ khuynh hướng sử thi chuyển sang khuynh hướng sự, đời tư Giai đoạn kháng chiến 1945-1975 Việt Nam thời điểm đặc biệt sản sinh nuôi dưỡng văn học sử thi Thành công khuynh hướng sáng tác kết tinh thành truyện ngắn làm bật chân dung anh hùng, người ưu tú cộng đồng với lý tưởng chung Sau năm 1975, nhà văn không hướng đến vấn đề lịch sử trị mà khai phá mảng thực đặt sống thời bình Văn học đương đại Việt Nam chiến tranh thiên khai phá mặt khuất lấp, vấn đề đời tư - sự, hướng đến sống đa trị qua thể cảm quan nhà văn Khám phá thực, người tính đa dạng, đa diện Biên độ thực chiến tranh mở rộng 10 CHƯƠNG 3 CÁC LOẠI HÌNH NHÂN VẬT CHỦ YẾU Loại hình học loại hình nhân vật văn học Loại hình học Phương pháp tiếp cận vấn đề văn học theo loại hình giúp khu biệt cách tương đối tượng mối quan hệ với hệ thống, tổng thể, từ đưa nhận định theo nhóm có chung đặc điểm Với vấn đề nhân vật truyện ngắn chiến tranh, chọn hướng tiếp cận cách thức để đưa kiến giải kiểu nhân vật truyện ngắn đương đại chiến tranh Cách phân loại nhân vật theo loại hình Tuỳ theo tiêu chí phân loại khác mà tìm thấy loại nhân vật có tương đồng mặt Trong truyện ngắn sau 1975 chiến tranh, giới nhân vật phong phú đa dạng Chúng chọn cách phân loại nhân vật dựa tiêu chí vai trò nhân vật tác phẩm kết hợp với tiêu chí giới tính, lứa tuổi, mức độ ảnh hưởng chiến tranh họ Từ luận án tập trung khảo sát số kiểu loại nhân vật chủ yếu khắc hoạ đậm nét truyện ngắn chiến tranh đương đại Các loại hình nhân vật tiêu biểu truyện ngắn sau 1975 viết chiến tranh Thế giới nhân vật truyện ngắn chiến tranh Trong truyện ngắn sau 1975 chiến tranh, viết chiến tranh kết thúc, có nhiều nhân vật lứa tuổi, giới tính người sống hoà bình, thường ngày Họ không tham gia chiến tranh mà xuất truyện với tư cách người kể chuyện, nhân vật phụ làm bối cảnh cho tuyến truyện 13 Trong khuôn khổ đề tài, chọn sâu khảo sát hai kiểu nhân vật tiểu biểu người lính người phụ nữ Họ thường nhân vật chính, nhân vật trung tâm tác phẩm Nhân vật người lính Nhân vật đa diện Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, người lính khắc hoạ đa chiều với cá tính riêng, số phận đời tư, nhiều gương mặt khác bên người Đó Trí Hai người trở lại trung đoàn – Thái Bá Lợi , vị tướng Ai biết mộ liệt sĩ đâu? - Văn Chinh, Lâm Truyền thuyết Quán Tiên - Xuân Thiều Không sản phẩm tinh thần lý tưởng hoá cao độ, họ lên với sai lầm, thiên kiến cá nhân, khoảnh khắc hèn nhát, lấn át lí trí Việc nhà văn “đặc tả” người nhiều chiều kích cách khách quan dẫn đến xuất nhân vật “lưỡng diện”, “đa trị” văn học nói chung truyện ngắn chiến tranh nói riêng Nhân vật tự ý thức - Ý thức hoàn cảnh Người lính xây dựng tâm tự ý thức cảnh ngộ để sống vượt lên nghịch cảnh sau chiến tranh Dù gặp mát, thiệt thòi hình tượng người lính đem đến cho người đọc khâm phục, cảm động họ biết vượt qua bi kịch cá nhân để khẳng định phẩm chất- lí tưởng sống Đó Lực Cỏ lau- Nguyễn Minh Châu, “anh” Đêm nguyệt thựcTrung Trung Đỉnh, Thao Miền cỏ hoang- Trần Thanh Hà Kiểu nhân vật chiếm số lượng lớn, sản phẩm tất yếu đổi tư nghệ thuật - Ý thức sai lầm để tự thú, sám hối 14 Tự ý thức trạng thái tinh thần để người chiêm nghiệm, suy ngẫm lại hành động Phần lớn họ người lính bên chiến tuyến chúng trình bày phần sau Bên cạnh đó, có nhân vật tự thú người lính cách mạng “người khách” Hồn cát - Nguyễn Hiệp, Lực Cỏ lau hoạ sĩ Bức tranh Nguyễn Minh Châu Xây dựng nhân vật thể nhạy cảm nhà văn trạng thái tâm lí đầy ám ảnh người sau chiến tranh, dù ai, đứng vị trí Nhân vật cô đơn Bên cạnh đối lập với kiểu nhân vật vượt lên nghịch cảnh nhân vật không dung hoà với sống sau chiến tranh Mang theo điều từ chiến tranh, nhiều người rơi vào trạng thái cô đơn, lạc lõng cộng đồngvà thời Đó tướng Thuấn Tướng hưu- Nguyễn Huy Thiệp, Châu Bóng ma đói quê hương- Vũ Bão, Mộc Trại “Bảy lùn”- Bảo Ninh Môtip người lính cô đơn trở thành mẫu hình phổ biến văn học sau 1975, làm phong phú tranh chân dung người lính Họ phản chiếu đời sống sau chiến tranh Nhân vật tha hoá Cùng với đổi tư nhu cầu “nói thật”, hình tượng người bị tha hóa xuất nhiều văn học nói chung truyện ngắn chiến tranh nói riêng Bởi chiến tranh không nơi khẳng định anh hùng mà nơi phân biệt kẻ hèn nhát, phản bội, nhỏ nhen Sự biến chất, tha hoá vấn đề khai thác tiểu thuyết truyện ngắn vấn nạn cần phê phán cảnh giác Đó Sức Anh Sức- Khuất Quang Thụy, Quang Cơn giông-Nguyễn Minh Châu, Lê Mãnh Nanh sấu- Sương Nguyệt Minh 15 Người anh hùng, người lính góc nhìn nhà văn trở nên chân thực, sinh động hơn, gần với đặc tính cố hữu người, chiều thánh thiện Nhân vật người lính bên chiến tuyến Cùng với thay đổi quan niệm đề tài chiến tranh, người, văn học có nhìn khách quan dành cho người phía “đối phương” Họ công cụ kẻ xâm lược chiến, bị hủy diệt lúc toan tính nhà cầm quyền, nhiều người bị xô đẩy vào chiến rơi vào bi kịch Đó Phúc Thời tiết ký ức- Bảo Ninh, John Smith Chú lùn thứ bảy- Lưu Sơn Minh, Huỳnh Phấn Đất ấm- Đỗ Văn Nhâm Nhân vật người lính “bên kia” phác hoạ với vẻ đẹp nhân Dù phải làm nhiệm vụ hàng ngũ địch họ có cảm xúc, tình cảm, lòng trắc ẩn người bình thường Đó Benla Cây số 42- Dũng Hà, Xơn Ông Ba Rạch Đùng- Dương Đức Khánh Hệ thống nhân vật phản chiếu tư “nhận thức lại lịch sử” cách khách quan, bao dung, nhân văn tiếp cận đề tài chiến tranh Vì vậy, họ “điền vào” vào khoảng trống mà giai đoạn trước truyện ngắn để ngỏ Nhân vật người phụ nữ Nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi Môtip nhân vật phụ nữ thuỷ chung chờ đợi xuất nhiều truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975 Điểm chung họ chờ đợi thời gian dài, chí nửa đời người, họ giữ mối chung tình với người xa dù chưa lời thề nguyền hẹn ước Đó Ân Mật Hai người đàn bà xóm trại Nguyễn Quang Thiều, cô gái làng chiến khu Giếng – Lê Tuấn Hiển, Hai Mật Trên mái nhà người phụ nữ - Dạ Ngân Họ tạo thành hệ thống nhân vật “ vọng phu” nhiều dáng vẻ, điển hình 16 cho nhân cách, phẩm chất, cách ứng phó với sống sau chiến tranh không phụ nữ Việt Nam Nhân vật phụ nữ với bi kịch chiến tranh Truyện ngắn sau 1975 chiến tranh tiếp cận người số phận cá nhân, người phụ nữ mang bi kịch con, trở thành người đàn bà goá bụa chịu thương tật di chứng chiến tranh,không làm mẹ Đó người bà Nắng chiều- Thụy Anh, bà cụ Lăng Bến trần gian- Lưu Sơn Minh , mẹ Chuyện xưa kết đi, chưa?- Bảo Ninh Họ tô đậm đức tính hi sinh, tình cảm sâu nặng, nghị lực kiên cường yếu đuối giới nữ Kiểu nhân vật gắn với cảm hứng bi kịch, tinh thần dân chủ, nhìn thẳng vào thật, truyện ngắn tiếp cận người góc độ mát, bất hạnh sống tác động chiến tranh Tuổi trẻ, nhan sắc, sức sống hao mòn thời gian chiến tranh với nếp sống tình cảm, chi phối dư luận cộng đồng khiến họ gặp nhiều trắc trở tình duyên nhiều người chí sống đơn độc phần đời lại Con người mang theo khuyết thiếu, vết thương tâm hồn, tình cảm vấn đề lớn sau chiến tranh Nhân vật phụ nữ tha hoá Trong cách tiếp cận thực người đa diện, người phụ nữ khắc hoạ bị chiến tranh kéo dài đẩy vào tình cảnh éo le, trở thành người bội bạc, chung chạ với nhiều người Kiểu nhân vật văn học giai đoạn trước Tuy nhiên, nhìn truyện ngắn thời kỳ với họ thường bao dung họ nạn nhân chiến tranh, nhiều hoàn cảnh, họ có khát khao đỗi thường tình người Đó nhân vật vợ Quang Rửa tay gác kiếm- Bảo Ninh, Diệu Nương Gió dại- Bảo Ninh, Diễm Thuý Đỉnh khói- Nguyễn Thị Kim Hòa, Thoải Thím Thoải- Hạnh Lê 17 Soi chiếu qua thân phận người phụ nữ, truyện ngắn sau 1975 hướng đến tận góc khuất thầm kín, khát vọng năng, vấp ngã đời thường Bên cạnh đó, họ toát lên đặc trưng nếp nghĩ, phẩm chất người phụ nữ Việt Nam truyền thống Tiểu kết Nhân vật truyện ngắn chiến tranh đương đại thêm vào chân dung, kiểu loại gắn với nhìn từ hoà bình Nhân vật người lính thời kỳ tập trung thể với tinh thần khách quan, nhân Viết đa dạng tính cách, chấn thương, bi kịch kết lối tư nghệ thuật Điều nghĩa phủ nhận kiểu nhân vật người lính anh hùng giai đoạn trước mà bổ sung, làm đầy đủ loại nhân vật Bên cạnh đó, nhân vật phụ nữ đối tượng đặc biệt quan tâm văn học nói chung truyện ngắn chiến tranh nói riêng Nhìn từ hoà bình, chân dung họ lên với tổn thương đầy khắc khoải nhược điểm mang tính bảo thủ người phụ nữ định kiến xã hội Việt Nam Họ đáng trân trọng, cảm thông chiến tranh qua để lại người phụ nữ với bi kịch lớn gia đình trọn vẹn CHƯƠNG 4 NHỮNG PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT 18 ĐẶC SẮC Tổ chức cốt truyện Khái niệm cốt truyện vai trò cốt truyện truyện ngắn Một số loại hình cốt truyện tiêu biểu Cốt truyện kiện - hành động Loại cốt truyện trọng yếu tố “có chuyện”,biến cố, kiện, hành động nhân vật phát triển tạo nên vận động cốt truyện Tuy nhiên, truyện ngắn chiến tranh đương đại, dù truyện triển khai kiện, hành động chủ yếu đan xen chi tiết, tình tiết lạ, bất ngờ, biến cố liên tục tạo độ căng cho truyện, trình tự kiện bị đảo lộn không thiết trình bày theo trật tự trước sau truyện truyền thống Đồng thời, nhà văn sử dụng yếu tố kỳ ảo, giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu cảm nhận người đại đời sống sau chiến tranh Nhiều truyện có kiểu cốt truyện như Kẻ sát nhân lương thiệnLại Văn Long Còn, Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Hai mươi năm sau Hồ Phương Cốt truyện tâm lý Sau năm 1975, kiểu cốt truyện chiếm tỉ lệ lớn truyện ngắn, hướng đến giới thực khó định hình nắm bắt tâm hồn người Sự kiện nhắc đến truyện không nhiều từ “mắc treo” ấy, tác giả làm hành trình xâm nhập, giãi bày trạng cảm xúc diễn tâm hồn nhân vật trước hoàn cảnh, khám phá người chiều sâu vô thức tâm linh sau chiến tranh Đây kiểu cốt truyện Bức chân dung người đàn bà lạ Chu Lai, Dòng sông trinh nữ 19 Sương Nguyệt Minh, Mỗi tháng có rằm Lê Hoài Lương Tiếp thu kiểu cốt truyện trữ tình, nhà văn đương đại vận dụng cách nhuần nhuyễn tinh tế nhìn hướng số phận cá nhân người sau chiến tranh Cốt truyện dòng ý thức bước phát triển cốt truyện tâm lý Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại, loại cốt truyện chưa đạt đến mức “điển hình” xuất số tác giả sử dụng phương tiện tìm kiếm nhận thức mẻ, sâu sắc giới bên người Có thể gặp kiểu cốt truyện Sám hối Phùng Văn Khai, Bến đàn bà Nguyễn Mạnh Hùng, Hoài vọng Văn Xương Xu hướng tự hoá cốt truyện Trong văn xuôi đương đại, người ta nói đến “lỏng lẻo”, “thu nhỏ” cốt truyện, nhà văn không tuân theo nguyên tắc truyền thống để xây dựng cốt truyện Một loại cốt truyện xuất không nhiều thể nghiệm mẻ nhà văn viết chiến tranh, cốt truyện mang yếu tố hậu đại Chú lùn thứ bảy, Bến trần gian, Âm kí ức Quan niệm văn học đương đại hướng đến “hiện thực không hoàn kết”, biết trước Vì vậy, truyện ngắn chiến tranh có xu hướng chuyển đổi từ cách kết thúc đóng sang kết thúc mở hậu, tạo bất ngờ, để lại nhiều dư âm, gợi mở Việc tổ chức truyện ngắn với cốt truyện, đoạn kết cách sáng tạo, độc đáo đem lại nhiều cách cảm nhận đề tài chiến tranh, phù hợp với cảm thức đời sống đại Nghệ thuật tạo dựng tình truyện Vai trò tình truyện ngắn Một số tình tiêu biểu Tình bi kịch 20 Kiểu tình bao hàm xung đột đời sống mang tính kịch cao, va chạm nhân vật trở nên gay gắt bị dồn nén không gian, thời gian hành động theo quy tắc kịch Tình bi kịch cho thấy bất lực người trước hoàn cảnh, khốc liệt chiến tranh chi phối, ảnh hưởng dai dẳng đến đời người góp phần thể nhìn mẻ nhà văn chiến tranh lịch sử sang trang Dạng tình thường gặp cốt truyện hành động, kiện- tâm lý Cỏ lau Nguyễn Minh Châu, Ba người sân ga Hữu Phương, Tiếng chuông trôi sông Vũ Hồng Tình tâm trạng Đó kiện đặc biệt đời sống mà nhân vật rơi vào tình làm nảy sinh biến động giới tình cảm Dạng thức tình sử dụng với mật độ cao truyện ngắn chiến tranh đương đại nhìn trước đề tài không thiên tính kiện, thời sự, cổ vũ kháng chiến mà dõi theo diễn biến phức tạp số phận người Nhà văn thường từ kiện khơi nguồn cho mạch tâm trạng, điều ẩn sâu tiềm thức người lên rõ nét Mỗi tháng có rằm Lê Hoài Lương, Thảm cỏ trời Ngô Thị Kim Cúc, Chị dâu Hoàng Tuấn chứa đựng tình Tình tâm lý truyện nhiều khó nhận biết lại gây hiệu ứng cảm xúc mạnh với độc giả Vì tạo nên truyện ngắn giàu chất thơ, giới tâm hồn, tâm linh bí ẩn người bộc lộ Tình tự ý thức Thông thường, kiểu tình cốt truyện tâm lý, kiện- tâm lý cốt truyện luận đề Tình tạo dựng với xung đột gay gắt đặt nhân vật vào buộc phải suy ngẫm, 21 tự nhìn nhận lại, điều chỉnh quan niệm sống, hành vi đấu tranh nhận thức để vươn đến hoàn thiện Có thể thấy tình nhiều truyện Vở nhạc kịch dâng mẹ Trầm Hương, Tiếng vạc sành Phạm Trung Khâu, Truyện khó viết Nguyễn Đông Thức Sự phân loại có tính chất tương đối viêc nhận diện dựa vào trội yếu tố để xác định tác phẩm truyện ngắn có tình truyện Đổi phương thức trần thuật Người kể chuyện thứ ba với điểm nhìn khách quan Đặc điểm phương thức người kể chuyện toàn tri diễn biến câu chuyện số phận nhân vật Trong truyện ngắn Việt Nam đương đại đề tài chiến tranh, hình thức kể chuyện từ thứ ba sử dụng phổ biến Nét truyện ngắn chiến tranh đương đại xu hướng hạn chế “quyền năng” người kể chuyện, sử dụng điểm nhìn bên ngoài, cách kể khách quan, lạnh lùng, lãnh đạm Trận gió màu xanh rêu Võ Thị Hảo, Bến trần gian Lưu Sơn, Loay xoay thuyền thúng Lê Nguyên Ngữ Người kể truyện thứ với điểm nhìn bên Người kể chuyện thứ gắn với điểm nhìn hướng nội, điểm nhìn bên nhằm bộc lộ giới nội tâm đầy bề bộn, trắc ẩn sau chiến tranh Theo lý thuyết G Genette, khảo sát truyện ngắn chiến tranh đương đại với dạng thức trần thuật từ thứ với điểm nhìn bên trongcó thể chia thành hai loại người kể chuyện kể tất chuyện nhiều người kể chuyện kể lại câu chuyện Kiểu trần thuật chiếm tỉ lệ lớn, thấy nhiều truyện ngắn như Chiều vô danh Hoàng Dân, 22 Người vãi linh hồn Vũ Bão, Anh Sức Khuất Quang Thụy, Hồn cát Nguyễn Hiệp Bên cạnh hai kiểu trần thuật trên, truyện ngắn chiến tranh đương đại có xu hướng trần thuật phối hợp kể, di động điểm nhìn Từ góp phần làm đa dạng phương thức trần thuật, hạn chế tính chủ quan, đơn điệu lối kể truyền thống Ngôn ngữ giọng điệu Ngôn ngữ Ngôn ngữ giàu chất thực, đời thường, phương ngữ Việc sử dụng ngôn ngữ giàu tính thực, giản dị cho phù hợp với hướng khai tác sống góc nhìn đời tư, số phận cá nhân mối quan hệ phức tạp sau chiến tranh Trong xu hướng kéo ngôn ngữ gần với thực đời sống, nhiều truyện ngắn chiến tranh đương đại sử dụng phương ngữ cách thức chuyển tải trọn vẹn câu chuyện số phận người gắn với vùng miền họ sinh thực, đời thườngcòn thể ngôn ngữ mang thở sống đương đại Ngôn ngữ đậm chất triết lý, trữ tình Sau chiến tranh, truyện ngắn phát vấn đề thực chiều sâu triết học nhu cầu chiêm nghiệm trước sống dẫn đến giảm ngôn ngữ kể, tả, tăng ngôn ngữ bình luận, phân tích Vì vậy, truyện ngắn tăng cường sử dụng từ ngữ mang sắc thái triết lí, suy tư Cùng với đó, ngôn ngữ trữ tình trải nghiệm, trầm lắng viết sống sau chiến tranh đầy điều phức tạp, bộn bề Ngôn ngữ mang tính đối thoại 23 Tinh thần đối thoại trước vấn đề chiến tranh hậu chiến cụ thể hoá qua ngôn ngữ Trong ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh không đối thoại nhân vật mà tranh biện quan điểm, tư tưởng phát ngôn họ Điều thấy truyện ngắn giai đoạn trước Ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh đương đại bồi đắp, tinh lọc để đem đến cho độc giả đương đại thông điệp sâu sắc kháng chiến trường kỳ dân tộc kỷ XX Giọng điệu Trong văn học trước năm 1975, tư sử thi cảm hứng lãng mạn tạo nên giọng điệu trang trọng, ngợi ca, châm biếm, nghiên cứu trang nghiêm Sau 1975, đặc biệt từ thời kì Đổi mới, giọng điệu tác phẩm biến đổi đa âm, đa thanh, phù hợp với trạng thái thực Đây hệ thay đổi quan niệm sáng tác, nghệ thuật trần thuật xây dựng nhân vật Tiểu kết Trong truyện ngắn Việt Nam đương đại nói chung,sự cách tân nghệthuật sở bảo lưu “mã di truyền” thể loại Yếu tố thi pháp truyền thống thể loại kế thừa cách tân cho phù hợp với môi trường văn hoá tầm đón đợi độc giả đương đại Truyện ngắn thể loại khác có vận động, đổi sâu sắc mặt nội dung, kiếm tìm thể nghiệm hình thức biểu đạt mẻ Điều dần kiến tạo sắc diện cho truyện ngắn đương đại 24 KẾT LUẬN Từ sau 1975 đến nay, truyện ngắn chiến tranh mạch chảy dòng chung văn học dân kế thừa mang tính sáng tạocủa truyện ngắn đề tài cho thấysự tác động mạnh mẽ thực đời sống xã hội, sách mở cửa hội nhập với văn chương Cùng với tiểu thuyết, truyện ngắn chiến tranh nỗ lực khai mở hướng tiếp cận với đề tài “muôn thuở ” thay đổi tư nghệ thuật cụ thể hoá truyện ngắn có nhìn khách quan đa chiều thực người, chi phối nội dung hình thức nghệ thuật truyện Sự mở rộng đường biên thực chiến tranh tinh thần nhân nhân vănđưa tác phẩm đến gần với văn chương giới đề tài cạnh đó, sử dụng yếu tố kỳ ảo, giấc mơ để dẫn dắt độc giả khám phá giới tâm linh, tiềm thức, vô thức người chịu tác động chiến tranh đem lại màu sắc mới, hấp dẫn độc giả đương đại Có thể nói, truyện ngắn phản chiếu lăng kính tư tưởng bổ sung thêm cách nhìn, cách viết hệ trưởng thành sau chiến tranh Ứng dụng cách tiếp cận theo loại hình, giới nhân vật truyện ngắn chiến tranh đương đại chia thành hai loại người lính người phụ nữ Trong đó, phân chia thành tiểu loại nhỏ để từ có lý giải, cắt nghĩa diện kiểu nhân vật nhân vật sáng tạo với tinh thần khách quan, nhân văn, nhiều loại có mẫu số chung với nhân vật văn học đương đại nói chung Tuy vậy, loại hình chứa đựng ý nghĩa, đặc trưng riêng họ người sau chiến tranh Vẫn hai loại nhân vật phổ biến văn học chiến tranh sau 1975 xây dựng với quan niệm nghệ thuật mẻ vật người lính không đơn phiến, dễ đoán biết 25 truyện ngắn trước 1975 mà xuất với trạng thái đa trị, lưỡng diện Họ khắc hoạ không với phẩm chất làm nên chiến thắng mà mặt trái, nét tính cách đời thường, tha hoá sau chiến tranh Người lính lên với mát, hi sinh, bi kịch, thiệt thòi bước khỏi chiến tranh Đó điều truyện ngắn giai đoạn trước Tuy vậy, nhân vật bi kịchvẫn khẳng định phẩm chất, lĩnh kiên cường họ ứng phó với sống hoà cạnh đó, loại nhân vật tự thú, sám hối xuất ngày nhiều thể tâm thức người thời hậu chiến Người lính phía bên chiến tuyến thể truyện ngắn đương đại cách khách quan, bao dung nhân văn phác hoạ nhân vật với vẻ đẹp nhân với đó, nhân vật người phụ nữ xuất với bi kịch, dang dở, bất hạnh chiến với giai đoạn trước, họ nạn nhân chiến tranh thân chịu đựng, đức hi sinh, thuỷ chung vô bờ bến nên nỗi cô đơn, bất hạnh họ trở nên ám ảnh dù chiến tranh qua lâu Trong truyện ngắn chiến tranh đương đại xuất ngày nhiều nhân vật phụ nữ bị chiến tranh xô đẩy thành kẻ bội bạc, lang chạ- kiểu nhân vật truyện ngắn thời chiến Người phụ nữ quan tâm khát vọng năng, vấp ngã, sai lầm đời thường Họ thường khắc hoạ với cảm thông, bao dung, đời sống nội tâm phức tạpchứ không đơn chiều giai đoạn đặc trưng thể loại, truyện ngắn “chớp lấy” khoảnh khắc “loé sáng” đời nhân vật, kiểu loại nhân vật truyện ngắn chiến tranh đương đại mang diện mạo khác, góp phần phản ánh đầy đủ tác động chiến tranh đến số phận người Quan sát truyện ngắn chiến tranh đương đại từ yếu tố thuộc đặc trưng thể loại, thấy kế thừa thành tựu tổ chức nghệ thuật truyện truyền thống Tuy vậy, truyện ngắn chiến tranh đương đại có vận dụng linh hoạt sáng tạo, tiếp thu xu hướng nghệ thuật văn chương giới Truyện ngắn chiến 26 tranh thể nỗ lực làm kiểu cốt truyện tình sử dụng thành công lịch sử truyện ngắn Việt Nam trước Một số xu hướng tổ chức cốt truyện tiêu biểu văn học giới kỉ XX như cốt truyện dòng ý thức, cốt truyện mờ nhạt, cốt truyện kiểu hậu đại sử dụng khai thác đề tài chiến tranh tạo Truyện thường sử dụng lối kết xu hướng mở, tình đơn giản “mời gọi” độc giả trải nghiệm đồng sáng tạo Điều thể linh hoạt, độ mở cấu trúc nghệ thuật truyện ngắn chiến tranh đương đại mở khả chiếm lĩnh thực bề sâu chiều rộng Trong nghệ thuật trần thuật truyện sử dụng lối kể đại, tạo nên cách tân mẻ, tiệm cận với xu hướng vận động thể loại văn học giới Người kể chuyện thứ ba với lối kể khách quan, dửng dưng; người kể truyện thứ với điểm nhìn bên liên tục có dịch chuyển điểm nhìn trần thuật tạo màu sắc mẻ cho người kể chuyện truyện ngắn chiến tranh Cũng phải ghi nhận vận động ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh theo hướng gần gũi với đời sống đương đại thấm đượm chất triết lý trữ tình Sử dụng ngày nhiều ngôn ngữ mang tính đối thoại phương diện khai thác đề tài chiến tranh Cùng với đó, giọng điệu đa thanh, biến hoá Bên cạnh giọng điệu trữ tình, triết lý tranh biện, đối thoại, ăn năn, sám hối Tất điều góp phần làm nên sắc diện cho truyện ngắn sau 1975 đến chiến tranh Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh cách thức tìm hiểu văn học Việt Nam đương đại Nếu truyện ngắn 1945-1975 truyện viếtvề thực chiến tranh tiếp diễn thìsau 1975 nối liền chiến tranh hoà bình với bao vấn đề để ngỏ cho tương lai Tìm hiểu truyện ngắn chiến tranh góp thêm góc nhìn gợi mở nghiên cứu văn học chiến tranh nói chung Từ tri nhận giá trị thẩm mỹ nhân văn mà văn học viết đề tài gây dựng 27 [...]... tuổi, mức độ ảnh hưởng của chiến tranh đối với họ Từ đó luận án tập trung khảo sát một số kiểu loại nhân vật chủ yếu được khắc hoạ đậm nét trong truyện ngắn chiến tranh đương đại Các loại hình nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh Thế giới nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, viết về chiến tranh khi nó đã kết thúc, có... làm nên sắc diện mới cho truyện ngắn sau 1975 đến nay về chiến tranh Nghiên cứu truyện ngắn chiến tranh cũng là một cách thức tìm hiểu văn học Việt Nam đương đại Nếu truyện ngắn 1945 -1975 là truyện viếtvề hiện thực chiến tranh đang tiếp diễn th sau 1975 là sự nối liền giữa chiến tranh và hoà bình với bao vấn đề còn để ngỏ cho hiện tại và tương lai Tìm hiểu truyện ngắn chiến tranh sẽ góp thêm một góc... thế của người viết đương thời, biên độ hiện thực chiến tranh được mở rộng Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ tiếp tục được phản ánh Cùng với đó, sự xuất hiện của nhiều truyện ngắn viết về cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, của quân tình nguyện Việt Nam ở Lào, Cămpuchia và biên giới phía Bắc những năm sau 1975 là sự bổ sung làm nới rộng biên độ hiện thực Hiện thực chiến tranh được biểu... vấn đề nhân vật trong truyện ngắn chiến tranh, chúng tôi chọn hướng tiếp cận này như một cách thức để đưa ra những kiến giải về các kiểu nhân vật trong truyện ngắn đương đại về chiến tranh Cách phân loại nhân vật theo loại hình Tuỳ theo tiêu chí phân loại khác nhau mà có thể tìm thấy những loại nhân vật có sự tương đồng về một mặt nào đó Trong truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh, thế giới nhân... giấc mơ, tâm linh đan xen, kiểu truyện “giả thể loại” để biểu hiện cảm nhận của con người hiện đại về đời sống trong và sau chiến tranh Nhiều truyện có kiểu cốt truyện này như Kẻ sát nhân lương thiệnLại Văn Long Còn, Mười ba bến nước Sương Nguyệt Minh, Hai mươi năm sau Hồ Phương Cốt truyện tâm lý Sau năm 1975, kiểu cốt truyện này chiếm tỉ lệ lớn trong truyện ngắn, hướng đến thế giới hiện... thống Tuy vậy, truyện ngắn chiến tranh đương đại có sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo, tiếp thu những xu hướng nghệ thuật của văn chương thế giới Truyện ngắn chiến 26 tranh thể hiện sự nỗ lực làm mới các kiểu cốt truyện và tình huống đã được sử dụng thành công trong lịch sử truyện ngắn Việt Nam trước đây Một số xu hướng tổ chức cốt truyện tiêu biểu trong văn học thế giới thế kỉ XX như cốt truyện dòng... Nguyễn Quang Thiều, cô gái ở làng chiến khu Giếng trong – Lê Tuấn Hiển, Hai Mật Trên mái nhà người phụ nữ - Dạ Ngân Họ tạo thành hệ thống nhân vật “ vọng phu” nhiều dáng vẻ, điển hình 16 cho nhân cách, phẩm chất, cách ứng phó với cuộc sống sau chiến tranh của không ít phụ nữ Việt Nam Nhân vật phụ nữ với bi kịch chiến tranh Truyện ngắn sau 1975 về chiến tranh tiếp cận con người ở số phận... phân tích Vì vậy, truyện ngắn tăng cường sử dụng các từ ngữ mang sắc thái triết lí, suy tư Cùng với đó, ngôn ngữ trữ tình trải nghiệm, trầm lắng khi viết về cuộc sống sau chiến tranh đầy những điều phức tạp, bộn bề Ngôn ngữ mang tính đối thoại 23 Tinh thần đối thoại trước những vấn đề của chiến tranh và hậu chiến được cụ thể hoá qua ngôn ngữ Trong ngôn ngữ truyện ngắn chiến tranh không chỉ là... của độc giả đương đại Truyện ngắn cũng như các thể loại khác đã có sự vận động, đổi mới sâu sắc về mặt nội dung, kiếm tìm và thể nghiệm hình thức biểu đạt mới mẻ Điều đó dần kiến tạo sắc diện mới cho truyện ngắn đương đại 24 KẾT LUẬN Từ sau 1975 đến nay, truyện ngắn về chiến tranh vẫn là một mạch chảy trong dòng chung của văn học dân kế thừa mang tính sáng tạocủa truyện ngắn đề tài này cho thấysự... đường khác nhau mở rộng đường biên phản ánh hiện thực Đề tài chiến tranh khi nhìn từ thời bình không còn giới hạn trong phạm vi hẹp cả về tư tưởng và trường phản ánh Vì vậy, từ sau 1986, đặc biệt là những năm 90, truyện ngắn chiến tranh “nở rộ” với sự phong phú về số lượng, đa dạng về phong cách, mới mẻ và khách quan trong xử lý chất liệu chiến tranh Hiện thực và con người dần hiện lên với bề rộng và chiều - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam sau năm 1975 viết về chiến tranh, Truyện ngắn việt nam sau năm 1975 viết về chiến tranh, 1. Đặc trưng thể loại và cảm hứng sáng tác Giá trị của một truyện ngắn chính là sức dung chứa những ý tưởng lớn trong một “kích cỡ nhỏ” của tác phẩm. Một trong những tiền đề quan trọng làm nên thành tựu của văn học Việt Nam đó là hiện thực cách mạng khơi nguồn cho sự sáng tạo và là cảm hứng chủ đạo của nhiều tác phẩm văn chương. Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã phản ánh rất rõ sự thay đổi của hiện thực cuộc sống, rõ nét nhất trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng… Nhận thức được điều này, khi tìm hiểu, tiếp cận truyện ngắn Việt Nam từ sau năm 1975, cần chú ý đến cảm hứng sáng tác của từng tác giả nói riêng và cảm hứng của thời đại nói chung. Khơi nguồn cảm hứng từ trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa là hiện thực cuộc sống được phản ánh qua cái nhìn của người nghệ sĩ. Đằng sau cái bức tranh bình minh trên biển đẹp tuyệt đích, hoàn mĩ ấy là sự thật tồi tệ, phũ phàng – cuộc sống của gia đình hàng chài một người đàn bà bị chồng hành hạ vô lí nhưng không bao giờ muốn từ bỏ kẻ độc ác ấy; những chiến sĩ nhiệt thành từng chiến đấu giải phóng miền Nam nhưng lại không thể nào giải thoát cho một người đàn bà bất hạnh. Còn trong truyện ngắn Một người Hà Nội, điều cơ bản mà nhà văn hướng đến là hiện thực cuộc sống thông qua nhân vật cô Hiền. Hình tượng ấy được xây dựng lên như để chứng minh có một tinh thần Hà Nội, một linh hồn Hà Nội thực sự đã và đang tồn tại, để lại dấu ấn đậm nét trong những người con của nó. Do vậy, cảm hứng chính của nhà văn trong tác phẩm này là khám phá bản sắc văn hoá Hà Nội – cái quyết định vận mệnh và vị thế của Hà Nội trong lịch sử, cũng là cái làm nền tảng cho bước phát triển mới của nó trong tương lai, như tác giả đã khẳng định “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng”. 2. Về không gian, thời gian nghệ thuật * Không gian nghệ thuật Sau năm 1975, khi đất nước hoàn toàn thống nhất, văn xuôi thường viết về vấn đề đời tư, thế sự; không gian ở đó là không gian sinh hoạt đời thường. Truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 cũng nằm trong dòng chảy chung của văn học nước nhà, thể hiện rõ nét trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải. Họ viết về cuộc sống thành thị, nông thôn, về số phận con người trong thời đại mới. Vì thế ta thường thấy xuất hiện những không gian trong sinh hoạt đời thường. Đó là nơi để nhân vật hoạt động và tự thể hiện mình trong cuộc sống thường ngày. Cái không gian chật chội của một gia đình có năm đứa con trên một con thuyền lênh đênh trên biển những lúc sóng to gió lớn; cũng có lúc khổ đau đến tận cùng vì người chồng vũ phu “cứ ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”. Thế nhưng người vợ ấy vẫn không chịu bỏ chồng theo đề nghị của người làm công lí vì nhiều lí do mà bà đưa ra hết sức thuyết phục. Nhưng xét đến cùng, trong không gian ấy con người bộc lộ đến cùng bản chất nhiều mặt tốt – xấu, thiện – ác, cao cả – thấp hèn, cách đối nhân xử thế của mình. Qua đó tác giả thể hiện cái nhìn về những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh. * Thời gian nghệ thuật Đọc truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, chúng ta dễ dàng nhận ra thời gian nghệ thuật ở trong tác phẩm là thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai. Nó đan quyện vào nhau, gắn kết với nhau để con người thể hiện mình, từ đó làm nên giá trị, ý nghĩa của tác phẩm. Điều đó thể hiện rõ nét qua hình ảnh cô Hiền – một người Hà Nội trong truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải luôn lặng lẽ giữ lấy nét hào hoa, thanh lịch của văn hoá Hà Nội lại được đặt giữa bối cảnh đã có sự đối lập giữa lối sống của người Hà Nội xưa với người Hà Nội hôm nay. Có thể nói rằng, các tác giả truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 đã rất thành công trong việc sử dụng thời gian như một phương tiện hữu hiệu để tạo nên hiệu quả nghệ thuật nhất định. Do vậy, tìm hiểu yếu tố thời gian nghệ thuật trong tác phẩm không những là để khám phá tác phẩm mà còn giúp học sinh thấy rõ được tài nghệ của nhà văn; có nhận thức được sự sâu sắc, tinh tế về nội dung của tác phẩm, thì việc tiếp nhận tác phẩm mới trở nên toàn vẹn hơn. 3. Ngôn ngữ, giọng điệu * Ngôn ngữ Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 thể hiện hết sức phong phú, đa dạng vừa gần gũi, bình dị như cuộc sống hàng ngày lại vừa đầy suy tư, sâu lắng. Truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải và Chiếc thuyền ngoài xa của nguyễn Minh Châu là minh chứng hùng hồn cho đặc điểm đó. Sự lí giải của người đàn bà hàng chài trước tòa án huyện “Mong các chú cách mạng thông cảm cho, đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi cho con đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được! Mong các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu. Các chú đừng bắt tôi bỏ nó!… vả lại, ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”. Phải nói rằng, cái ngôn ngữ mà người đàn bà hàng chài đưa ra để giải thích lí do đối với chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng; dù không hoa mĩ, cầu kì, sắc sảo nhưng nó chứa đầy sức thuyết phục. Vì đó là ngôn ngữ của người đàn bà hàng chài, nó bình dị gần với cuộc sống đời thường nhưng mang đậm triết lí sâu sắc. Bởi đó là thực tế cuộc sống mà chỉ có họ mới là người nếm trải, lại thấm thía và thấu hiểu mà không ai có thể làm thay được. * Giọng điệu Sau năm 1975, khi chiến tranh đi qua, nhịp sống đời thường trở lại với tất cả những biểu hiện phong phú của đời sống ích kỉ, vị tha, cao thượng, thấp hèn, phàm tục…Văn xuôi từ chỗ “phản ánh hiện thực” đến chỗ “nghiền ngẫm hiện thực”, đi vào tìm hiểu “toàn bộ chiều sâu của tâm hồn con người”.Vì thế văn chương không thể chỉ có cảm xúc ngợi ca mà còn có đối thoại, đó chính là biểu hiện của mối quan hệ bình đẳng giữa nhà văn và độc giả. Thời kì này, nhà văn nhìn cuộc sống qua lăng kính đời tư, thế sự, quan tâm đến con người ở tư cách cá nhân. Từ giọng điệu trang trọng sử thi, sắc bén họ chuyển dần sang giọng điệu tâm tình, gần gũi, giản dị của đời thường. Con người không chỉ là đối tượng để ngợi ca mà còn là tiêu điểm để nhà văn khai thác bề sâu tâm hồn. Nếu như trước 1975, nhà văn ngợi ca những con người, những sự kiện mang tầm vóc sử thi thì sau 1975, tác phẩm truyện ngắn tập trung ngợi ca những con người bình dị, hồn nhiên thể hiện niềm tin của tác giả vào con người và cuộc đời. Việc ngợi ca đức hi sinh cao cả của người phụ nữ làm nghề chài lưới trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho thấy thái độ trân trọng, thấu hiểu và cảm thông của nhà văn đối với nhân vật mình. Hay trong truyện ngắn Một người Hà Nội, Nguyễn Khải đã cho thấy trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử nhân vật cô Hiền vẫn mãi là “hạt bụi vàng” giữa đất kinh kì “chói sáng những ánh vàng”. 4. Cốt truyện, kết cấu của tác phẩm * Cốt truyện Khi tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, để giúp HS nắm được sự phát triển của cốt truyện, GV có thể yêu cầu HS kể lại tác phẩm sau khi đã đọc. Khi kể, các em có thể trình bày một cách chi tiết hoặc sơ lược, nhưng miễn là giới thiệu được câu chuyện xoay quanh phát hiện của nghệ sĩ Phùng và cuộc sống của gia đình hàng chài. Qua đó, nhà văn gửi gắm quan niệm của mình về con người và cuộc sống. Nắm được cốt truyện tức là giúp HS củng cố được tri thức văn học đồng thời trau dồi năng lực tư duy, ngôn ngữ, phát triển năng khiếu thẩm mĩ cho HS. Điều quan trọng để nắm vững cốt truyện trong tác phẩm là phân tích các chặng đường phát triển chủ yếu của đó sẽ tạo ở các em một ấn tượng hoàn chỉnh về hình tượng tự sự ở trong tác phẩm. Nắm vững cốt truyện là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình hướng dẫn HS tìm hiểu những yếu tố về nghệ thuật của truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 ở trường phổ thông. * Kết cấu Truyện ngắn từ sau năm 1975 đã không chịu đầu hàng trước hiện thực phức tạp, đa chiều của cuộc sống; đã đem lại nhiều kiểu kết cấu hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt. Đó là kiểu kết cấu tâm lí, giúp nhà văn có điều kiện thâm nhập vào thế giới bên trong của tâm hồn con người mà không cần nhiều lời. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc sống của gia đình người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa và những sinh hoạt quen thuộc dường như đã trở thành “nếp” trong gia đình cô Hiền trong Một người Hà Nội; tưởng chừng như rất đơn giản nhưng trong đó chất chứa bao nỗi niềm trăn trở của nhà văn về con người và cuộc sống. Dường như tác giả muốn trao quyền kết luận cho người đọc qua việc sử dụng lối kết cấu độc đáo này. Hay ở phần kết tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, hình ảnh người đàn bà “bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc cảm nhận được rằng “người đàn bà” hòa lẫn trong đám đông ấy phải chăng còn bao số phận khác như người đàn bà hàng chài này chăng? Cuộc đời họ rồi sẽ đi về đâu… Kết cấu đó cũng gợi mở nhiều vấn đề, tạo ra nhiều khoảng trống để người đọc cảm nhận và giải mã khoảng trống đó. 5. Nhân vật trung tâm Khi tìm hiểu nhân vật trung tâm trong truyện ngắn, cần dựa vào các yếu tố lai lịch, ngoại hình, gốc gác, ngôn ngữ, nội tâm, cách ứng xử, cử chỉ, hành động của nhân vật. Phân tích, tìm hiểu nhân vật cô Hiền trong truyện ngắn Một người Hà Nội đã cho thấy Điều mà tác giả quan tâm và tập trung thể hiện ở nhân vật cô Hiền chính là vẻ đẹp của một lối sống, nhân cách người Hà Nội, “một người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn”, như chính lời của người kể chuyện nói về nhân vật. Truyện đưa ra nhiều chi tiết sự việc về nhân vật cô Hiền, nhưng chung quy lại vẫn là ở hai mối quan hệ chính gia đình và xã hội, với cách mạng. Với tư cách là người mẹ, người chủ gia đình, hay một công dân, ở nhân vật cô Hiền đều toát lên một vẻ đẹp của nhân cách, của lối sống văn hoá, của một bản lĩnh. Đó là con người luôn giữ vững những quan niệm và cách sống của mình, không bị biến suy theo những đổi thay của thời cuộc, lại tỉnh táo sáng suốt, không xu thời nhưng cũng không để bị rơi vào tình thế của kẻ lạc thời. Sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, giàu có; thời trẻ cô Hiền được cha mẹ cho phép mở một xa lông văn chương, nơi gặp gỡ của nhiều văn nhân nghệ sĩ có tiếng của đất Hà thành. Như thế, cô thuộc thế hệ tân tiến trong lớp thanh niên thành thị thời trước cách mạng. Nhưng việc cô lấy chồng lại chọn “một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc”. Điều đó thể hiện rõ sự lựa chọn tỉnh táo và những quan niệm nghiêm túc của cô về hôn nhân và gia đình. Nhưng việc dạy dỗ con cái của cô là nhằm hướng tới cái quan trọng nhất trong nhân cách một con người… 6. Tình huống truyện Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa thuộc loại tình huống cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lí của nhân vật. Điều đó thể hiện rõ nét thông qua quá trình nhận thức khá quanh co và được “vỡ ra” từ hiện thực cuộc sống của nhiếp ảnh Phùng và chánh án Đẩu. Để có được một tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển theo yêu cầu của trưởng phòng, nhiếp ảnh Phùng tới một vùng biển vốn là chiến trường cũ của anh. Và mất mấy ngày “săn tìm”, anh mới “chộp” được một tấm hình như ý. Đó là một sản phẩm quý hiếm của hóa công mà trong đời người nghệ sĩ không phải khi nào cũng có được. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng trở nên bối rối và “trong tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy mình vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng bước ra từ chiếc thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ đã đánh lại cha. Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ, như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Tuy nhiên, đó mới là phần khởi đầu của truyện cũng như của tình huống. Cuộc tiếp xúc giữa chánh án Đẩu và người đàn bà hàng chài đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Theo lời mời của chánh án Đẩu – người có ý định khuyên bảo, thậm chí đề nghị người đàn bà ấy từ bỏ lão chồng vũ phu. Nhưng trước toà án, chị ta đã từ chối quyết liệt với những lí do không khỏi Phùng và Đẩu “đau đầu” suy nghĩ Đó là vì gã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng của những đàn bà hàng chài như chị, nhất là khi biển động, phong ba. Hơn thế nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì chúng nhiều hơn là cho bản thân chị. Và quan trọng hơn là trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng, con cái sống hoà thuận, vui vẻ… Như vậy, tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa giống như một vòng tròn đồng tâm mà người nhiếp ảnh Phùng cũng như chánh án Đẩu đều phải trải qua một quá trình nhận thức để đạt đến trạng thái “đốn ngộ” cho tâm hồn. Nguồn Dẫn theo bài viết HƯỚNG DẪN HỌC SINH VẬN DỤNG THI PHÁP HỌC VÀO DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU NĂM 1975 của Chu Đình Kiên, Trần Thị Hương Ngày đăng 19/03/2020, 2305 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ NĂM HOÀNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 - NHÌN TỪ GĨC ĐỘ THỂ LOẠI Chun ngành Văn học Việt Nam Mã số 62 22 34 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS TS LÊ VĂN LÂN PGS TS HÀ VĂN ĐỨC Hà Nội - 2016 LỜI CẢM ƠN Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới GS TS Lê Văn Lân PGS TS Hà Văn Đức Khoa Văn học, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, ngƣời thầy tận tình hƣớng dẫn tơi trình nghiên cứu thực luận án Xin đƣợc gửi lời cảm ơn trân trọng tới thầy giáo đào tạo, dìu dắt tơi nhiều năm qua để tơi có đƣợc tri thức phƣơng pháp nghiên cứu khoa học Tôi xin cảm ơn thầy cô giáo đồng nghiệp Khoa Văn học – Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn luôn động viên, tạo điều kiện cho tơi q trình học tập, cơng tác hoàn thành luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hồng LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan rằng - Luận án Tiến sĩ kết nghiên cứu riêng dƣới hƣớng dẫn tập thể hƣớng dẫn khoa học, chƣa đƣợc cơng bố cơng trình nghiên cứu ngƣời khác - Kết nghiên cứu nhà nghiên cứu khác đƣợc tiếp thu cách trung thực, cẩn trọng luận án NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Năm Hoàng MỞ ĐẦU Lý chọn đề tài “Thể loại văn học chất phản ánh khuynh hƣớng phát triển vững bền, vĩnh văn học, thể loại văn học tồn để gìn giữ, đổi thƣờng xuyên khuynh hƣớng Do mà thể loại văn học ln vừa mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định” [150, Trong trình sáng tạo, nhà văn kiến tạo tác phẩm thuộc thể loại định, mặt bảo lƣu đặc trƣng cốt yếu thể loại, mặt khác khơng ngừng tìm tòi, cách tân để tác phẩm có đƣợc diện mạo, sức sống riêng, nhờ góp phần làm nên biến đổi, phát triển thể loại Việc quan sát vận động thể loại văn học công việc cần thiết, có ý nghĩa quan trọng nghiên cứu lịch sử văn học nói chung Văn học Việt Nam đầu kỷ XX thực công đại hóa mau lẹ phức tạp để tiến bƣớc dài từ phạm trù trung đại sang phạm trù đại, từ quỹ đạo vùng Đông Á gia nhập vào quỹ đạo toàn giới Một biểu rõ nét cơng đại hóa phá vỡ mơ hình thể loại truyền thống, hình thành cấu trúc thể loại với tự sự, trữ tình kịch Vận động dòng chảy chung văn học, truyện ngắn đại đƣợc hình thành qua giai đoạn 1932 – 1945, 1945 – 1975 đạt đƣợc nhiều thành tựu, đánh dấu bƣớc quan trọng thể loại Năm 1975, chiến tranh kết thúc, miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, sống trở với quỹ đạo bình thƣờng Hồn thành sứ mệnh phục vụ kháng chiến, văn học từ năm 1975 đến vừa kế thừa thành tựu giai đoạn trƣớc, vừa vận động phát triển với nguyên tắc, khuynh hƣớng, đặc điểm Nếu nhƣ thơ ca phải đợi đến sau năm 1986 thực có đƣợc bƣớc ngoặt quan trọng cho q trình đổi văn xi, q trình đƣợc khởi tạo sau năm 1975 Với cách nhìn mẻ ngƣời thực, nhiều tác giả văn xuôi bƣớc đổi phƣơng thức xây dựng hình tƣợng nghệ thuật đặc điểm thi pháp tác phẩm, sớm phải kể tới tiểu thuyết Lê Lựu Thời xa vắng, Ma Văn Kháng Mưa mùa hạ, Mùa rụng vườn, Nguyễn Mạnh Tuấn Đứng trước biển, Cù lao Tràm, Nguyễn Khải Cha Con, và…, Gặp gỡ cuối năm hay truyện ngắn Thái Bá Lợi Hai người trở lại trung đoàn, Xuân Thiều Gió từ miền cát, Nguyễn Minh Châu Người đàn bà chuyến tàu tốc hành, Bến quê… Cuộc chiến tranh vừa qua dân tộc vấn đề sự, đời tƣ, số phận ngƣời điều kiện lịch sử đƣợc tƣ duy, nhận thức cách mẻ Có thể nói, khơng đợi đến cơng đổi tồn diện đất nƣớc đƣợc Đảng khởi xƣớng vào cuối năm 1986, nhu cầu đổi tƣ thể nghiệm đổi đƣợc nhà văn thực hoá mạnh mẽ văn chƣơng chiến tranh kết thúc, đất nƣớc bƣớc vào giai đoạn hòa bình, dựng xây Những biến chuyển phác thảo nên thời kỳ phát triển cho văn học thời kỳ đƣơng đại Trong tranh chung đó, thành tựu đổi truyện ngắn đƣợc xác lập sớm sơi Có thể nói thể loại tự cỡ nhỏ động, linh hoạt chứng tỏ nhạy bén nhƣ ƣu bƣớc chuyển định hình văn học Việt Nam bốn mƣơi năm qua Thực tế đặt nhiệm vụ tìm hiểu diện mạo lịch sử truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn thể loại Đã có cơng trình nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 mảng vấn đề, khía cạnh khác nhau, chẳng hạn nghiên cứu tác giả nhóm tác giả truyện ngắn tiêu biểu; phận truyện ngắn đƣợc đăng tải số tờ báo, tạp chí; đặc điểm truyện ngắn vùng miền, chặng đƣờng phát triển cụ thể Theo quan sát chúng tôi, tiểu thuyết thơ đƣợc quan tâm nghiên cứu cách bao quát chi tiết nhiều công trình khoa học lý luận nhƣ lịch sử thể loại, đến thiếu vắng cơng trình soi rọi cách có hệ thống truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 từ góc độ thể loại để thấy đƣợc vận động biến đổi thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc, nhƣ tƣơng quan với thể loại khác giai đoạn – tức đƣợc đặc điểm thể loại xét từ hai chiều lịch đại đồng đại Xuất phát từ tiền đề lý luận thực tiễn nhƣ trên, luận án lựa chọn đề tài nghiên cứu Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - nhìn từ góc độ thể loại Đối tƣợng phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Chúng xác định đối tƣợng nghiên cứu luận án đặc điểm cho thấy vận động đổi truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975 xét phƣơng diện thể loại, đặc điểm dung lƣợng, tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ giọng điệu Phạm vi nghiên cứu Về phạm vi nghiên cứu, luận án khảo sát nghiên cứu truyện ngắn Việt Nam giai đoạn từ năm 1975 đến Tuy nhiên, đứng trƣớc diện vô đa dạng phong phú truyện ngắn văn học Việt Nam giai đoạn này, với số lƣợng lớn tác giả, tác phẩm nhiều kiểu loại, nhiều khuynh hƣớng, phong cách, tập trung nghiên cứu nhiều vào tác phẩm thể rõ vận động, đổi thể loại, phù hợp với hƣớng tiếp cận chúng tơi Đó tác phẩm đạt giải thƣởng văn học, tác phẩm công bố tạo nên dƣ luận sôi nổi, tác phẩm nhà văn định hình phong cách, đƣợc biết đến rộng rãi công chúng văn học, đƣợc giáo trình, viết có uy tín văn học Việt Nam giai đoạn đánh giá tiêu biểu Với giới hạn quy mô khả bao quát tƣ liệu, sáng tác truyện ngắn tiếng Việt nƣớc giai đoạn không thuộc phạm vi nghiên cứu luận án Do đối tƣợng nghiên cứu tiếp tục vận động phát triển, xác định mốc thời gian sau cho tác phẩm phạm vi khảo sát luận án truyện ngắn đƣợc xuất năm 2014 Chúng tơi hy vọng thơng qua đó, thấy đƣợc, tất cả, đặc điểm bật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc độ thể loại Bên cạnh đó, số truyện ngắn tiêu biểu giai đoạn phát triển trƣớc số tác phẩm đồng đại thuộc thể loại khác đƣợc liên hệ, đối sánh tới cần thiết Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát thành tựu nhƣ điểm dừng, hạn chế thể loại bối cảnh chung văn học Việt Nam đƣơng đại Nhiệm vụ nghiên cứu Trên sở khảo sát đối tƣợng nghiên cứu, luận án tìm hiểu vận động mặt thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phƣơng diện co giãn dung lƣợng tác phẩm, xâm nhập giao thoa phƣơng thức tự sự, vận động kiểu tình chính, đa dạng hóa hình thức kết cấu, nghệ thuật xây dựng nhân vật ngôn ngữ Luận án đặt truyện ngắn Việt Nam sau 1975 tiến trình vận động phát triển thể loại truyện ngắn Việt Nam, đƣợc tính kế thừa biến thiên, cách tân thể loại giai đoạn so với giai đoạn trƣớc Từ đó, đƣa số đánh giá thành tựu lý giải điểm dừng, giới hạn truyện ngắn bối cảnh chung thể loại văn học đƣơng đại Việt Nam Đạt đƣợc mục đích trên, luận án đƣa nhìn tổng quan truyện ngắn văn học Việt Nam sau 1975 nhìn từ góc độ thể loại, trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu văn xi nói riêng, văn học Việt Nam nói chung Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án áp dụng thi pháp học tự học vào việc phân tích, tìm hiểu đặc trƣng truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Với ý nghĩa cơng trình nghiên cứu giai đoạn phát triển thể loại, trƣớc hết, vận dụng phƣơng pháp thực chứng lịch sử để mô tả, khái quát tình hình vận động phát triển truyện ngắn phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại Từ đó, luận án vừa tổng kết đối tƣợng, vừa đƣa đƣợc so sánh, liên hệ đối tƣợng với truyện ngắn Việt Nam giai đoạn trƣớc Bên cạnh đó, phƣơng pháp loại hình đƣợc vận dụng chƣơng mở đầu luận án nhằm phân chia đối tƣợng nghiên cứu thành kiểu, loại với tiêu chí nhận diện cụ thể Phƣơng pháp giúp cho luận án, chƣơng tiếp theo, nhìn nhận phƣơng diện làm nên đặc trƣng thể loại truyện ngắn giai đoạn tình huống, kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ nhƣ tổng thể với nhiều nhóm đối tƣợng đƣợc phân loại khảo sát cách độc lập tƣơng đối, vừa thống nhất, vừa đa dạng Các thao tác khoa học cụ thể đƣợc vận dụng luận án nhƣ sau Thao tác thống kê, phân loại, hệ thống hoá nhằm nhận diện nhóm đối tƣợng khảo sát đặc điểm chúng nhƣ kiểu truyện, kiểu tình huống, kết cấu, nhân vật Thao tác phân tích, tổng hợp, khái quát nhằm đƣa nhận định khoa học, minh chứng đối tƣợng khảo sát, từ đánh giá, lý giải kết luận thu đƣợc Thao tác so sánh thao tác khoa học quan trọng để nhìn nhận đối tƣợng nghiên cứu liên hệ, tƣơng quan, đối sánh, soi rọi từ nhiều góc độ, qua tƣơng đồng khác biệt truyện ngắn kiểu khác nhau, tác giả khác nhau… Sự vận động thể loại so với giai đoạn trƣớc biến chuyển bên thân đối tƣợng giai đoạn này, nhờ thế, đƣợc làm rõ Đóng góp luận án Luận án cơng trình khoa học áp dụng lý thuyết tự học thi pháp học vào việc nghiên cứu thể loại truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Tuy có số cơng trình theo hƣớng nghiên cứu này, nhƣng với phạm vi nghiên cứu rộng lớn hƣớng triển khai mình, luận án cơng trình khảo sát đối tƣợng để đến nhận định, tổng kết khái quát đặc điểm thi pháp, vận động thành tựu truyện ngắn Việt Nam bốn mƣơi năm qua Vì thế, luận án khơng góp phần làm sáng tỏ vấn đề có tính lý luận thể loại, mà khảo sát gắn với quan điểm việc phân kỳ tổng kết văn học sử Cùng với cơng trình nghiên cứu tổng quan thể loại khác tiểu thuyết, thơ , luận án góp phần đƣa hình dung khái quát chặng đƣờng bốn mƣơi năm vận động phát triển văn học Việt Nam thời kỳ đƣơng đại Luận án cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu, giảng dạy học tập ngành Văn học trƣờng Đại học, Cao đẳng, cho độc giả quan tâm văn học Việt Nam sau 1975 Cấu trúc luận án Luận án bao gồm Mở đầu, Nội dung, Kết luận Tài liệu tham khảo Nội dung đƣợc chia thành bốn chƣơng - Chƣơng 1 Tổng quan vấn đề nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 113 Nhiều tác giả 2012, Tiếp nhận văn học nghệ thuật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 114 Phạm Phú Phong 2005, “Thái Bá Lợi với tiểu thuyết viết chiến tranh sau năm 1975”, Truy cập ngày 03/03/2008 115 Huỳnh Nhƣ Phƣơng 1991, “Văn xuôi năm 80 vấn đề dân chủ hóa văn học”, Tạp chí Văn học 4, 116 Pôxpêlốp Chủ biên 1985, Dẫn luận nghiên cứu văn học, T II, NXB Giáo dục, Hà Nội 117 Lê Hồ Quang 2012, “Cảm hứng truyện ngắn Lê Minh Khuê”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 3, 118 Saussure F 1973, Giáo trình Ngơn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 119 Shoyo T 2013, Chân tủy tiểu thuyết, Trần Hải Yến dịch giới thiệu, NXB Thế giới, Hà Nội 120 Trần Đình Sử 1987, Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới, Hà 121 Trần Đình Sử 2000, Lý luận phê bình văn học, NXB Giáo dục, Nội Hà Nội 122 Trần Đình Sử 2001, Văn học thời gian, NXB Văn học, Hà Nội 123 Trần Đình Sử Chủ biên 2004, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 124 Trần Đình Sử Chủ biên 2008, Tự học Một số vấn đề lý luận lịch sử, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 174 125 Trần Đăng Suyền 2002, Nhà văn thực đời sống cá tính sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 126 Nguyễn Bá Thành 2006, Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 127 Phạm Xuân Thạch 2005, “Tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại, suy nghĩ từ tác phẩm mang chủ đề lịch sử”, Truy cập ngày 3/3/2008 128 Phạm Xuân Thạch 2013, “Văn Việt - qua quyển”, Tạp chí Lý luận Phê bình Văn học, nghệ thuật 9, 129 Phạm Xuân Thạch 2014, Sự khởi sinh tính đại - Trần thuật Việt Nam ba thập niên đầu kỷ XX, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội 130 Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, NXB Văn học, Hà 131 Bùi Việt Thắng 2000, Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết Nội thực tiễn thể loại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 132 Bùi Việt Thắng 2005, Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội Nhân dân, Hà Nội 133 Phạm Thị Thật 2009, Truyện ngắn Pháp cuối kỷ XX – số vấn đề lý thuyết thực tiễn sáng tác, NXB Giáo dục, Hà Nội 134 Đoàn Cầm Thi 2004, “Chiến tranh, tình yêu, dục vọng văn học Việt Nam đƣơng đại”, Truy cập ngày03/03/2008 135 Nguyễn Huy Thiệp 2005, Giăng lưới bắt chim, NXB Hội Nhà văn - Cơng ty Văn hóa Đơng A, Hà Nội 136 Nguyễn Quang Thiều Chủ biên 2000, Tác giả nói tác phẩm, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 137 Xuân Thiều 2005, Tiếng nói cảm xúc, NXB Phụ nữ, Hà Nội 175 138 Lƣu Khánh Thơ 2005, “Từ quan niệm thơ đến lý luận tiểu thuyết - Bƣớc tiến đƣờng đại hóa văn học dân tộc” Tạp chí Nghiên cứu văn học 4, 139 Bích Thu 1996, “Những thành tựu truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học 9, 140 Bích Thu 1998, Theo dòng văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 141 Bích Thu 1999, “Những dấu hiệu đổi văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống mơ típ chủ đề”, Tạp chí Văn học 01, 142 Bích Thu 2008, “Yếu tố trữ tình truyện ngắn Lƣu Quang Vũ”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 9, 143 Lý Hoài Thu 2006, Đồng cảm sáng tạo, NXB Văn học, Hà Nội 144 Phan Ngọc Thu 2008, “Thái Bá Lợi trình đổi bút pháp sáng tạo”, http // Truy cập ngày 20/5/2014 145 Đỗ Lai Thúy 2011, Phê bình văn học, vật lưỡng thê ấy, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 146 Hỏa Diệu Thúy 2010, Truyện ngắn đại Việt Nam 1945 - 1975, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 147 Lê Hƣơng Thủy 2006, “Truyện ngắn sau 1975 - số đổi thi pháp”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 11, 148 Lê Hƣơng Thủy 2013, Truyện ngắn Việt Nam sau 1986 - nhìn từ góc độ thể loại, Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Hà Nội 149 Todorov T 2004, Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 150 Lê Ngọc Trà 2005, Lý luận văn học, NXB Trẻ, Tp Hồ Chí Minh 176 151 Ngọc Trai 1987, “Sự khám phá ngƣời Việt Nam qua truyện ngắn”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội 10, 152 Phạm Thị Ngọc Trâm 2002, “Về tƣợng mƣợn truyện cổ dân gian truyện ngắn từ sau năm 1975”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật 6, 153 Bùi Thanh Truyền 2006, “Yếu tố kỳ ảo văn xuôi đƣơng đại Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Hà Nội 154 Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội - Khoa Ngữ văn - Bộ môn Văn học nƣớc 2013, Văn học hậu đại - Lý thuyết thực tiễn, NXB Đại học Sƣ phạm, Hà Nội 155 Trƣờng Đại học Vinh - Khoa Ngữ văn 2012, Tiểu thuyết truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến nay, NXB Đại học Vinh, Nghệ An 156 Lê Dục Tú 2007, “Thể loại truyện ngắn đời sống văn học đƣơng đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học 2, 157 Lê Dục Tú 2012, “Đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn đƣơng đại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 158 Lê Dục Tú 2012, “Truyện ngắn đƣơng đại đề tài chiến tranh - đổi tƣ thể loại”, http Truy cập ngày 12/3/2012 159 Nguyễn Thanh Tú 2009, Văn học người lính, NXB Văn học, Hà 160 Trịnh Thu Tuyết 1999, “Nguyễn Minh Châu với nghệ thuật xây Nội dựng nhân vật truyện ngắn”, Tạp chí Văn học 1, 161 Dƣơng Tƣờng 2010, Chỉ chích chòe, NXB Hội Nhà văn, Hà 162 Phùng Văn Tửu 1996, “Một phƣơng diện truyện ngắn”, Tạp chí Nội Văn học 2, 177 163 Dƣơng Phƣơng Vinh 2005, “Đỗ Hồng Diệu Bóng đè ngày giơng bão”, Truy cập ngày 7/6/2014 164 Vƣgốtxki L X 1995, Tâm lý học nghệ thuật, Hoài Lam dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 165 Xô-skin 1962, Vận dụng thể truyện ngắn, NXB Văn học, Hà Nội 166 Zohar I E 2014, Lý thuyết đa hệ thống nghiên cứu văn hóa, văn chương, Trần Hải Yến, Nguyễn Đào Nguyên dịch, NXB Thế giới, Hà Nội Tiếng Anh 167 Neuage T 1997, Influence of the World Wide Web on literature, Masters thesis, University of South Australia, Truy cập ngày 18/10/2010 Tiếng Pháp 168 Aron P., Saint – Jacques D., Viala A 2004, Le dictionaire du litéraire, Deuxième édition revue et augmentée, Quadrige/ PUF, Paris 169 Grojnowski D 1993, Lire la nouvelle, Dunod, Paris 170 Jauss H R 1978, Pour une esthétique de la réception, traduit de l’ Allemand par Claude Maillard, Gallimard, Paris 171 Montalbetti C 2003, Le personnage, GF Corpus, Paris 172 Piegay - Gros N., 2002, Le lecteur, GF Corpus, Paris 173 Souriau E 1990, Vocabulaire d’esthétique, Press universitaires de France, Paris 178 PHỤ LỤC Bảng 1 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập Truyện ngắn hay Việt Nam thời kỳ đổi mới, tập NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2000 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 7/30 ≈ 24% 13/30 ≈ 43% 10/30 ≈ 33% Chiếc thuyền xa Một lần đối chứng Thanh minh trời sáng Tiếng dội từ rừng đƣớc Dƣới đáy vực Ngƣời bào chế thuốc Bên gốc bàng Lãng tử Quãng vắng giảm đau Tiếng khóc tiếng hát Trang viết bão Lên ruồi Ngƣời kể chuyện thuê Gặp lại Đạo tƣởng Ảnh đen trắng Tình buồn Gió heo may Nghĩa địa xóm Chùa Những ngƣời đàn bà Quyền khơng điên Con mèo Foujita Tự truyện Lá quốc thƣ Hai ông cháu ngƣời chủ xƣa Bụi cỏ đƣờng làng Sự tích ngày đẹp trời 179 Con mèo Tƣớng hƣu Muối rừng 180 Bảng 2 Định hƣớng nhận thức nhan đề tập 33 truyện ngắn chọn lọc 1945 – 1975 NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1976 Gây ý vào số Tóm lƣợc, bao quát nội Hạn chế định hƣớng yếu tố truyện dung câu chuyện 3/33 ≈ 9% 18/33 ≈ 55% 12/33 ≈ 36% Ngƣời kháng chiến Một lần tới thủ đô Mầm sống Đôi mắt Kỷ niệm ngƣời xa Đêm hồng Mảnh trăng cuối rừng Mùa cá bột Những đò danh dự Quê hƣơng Khác trƣớc Con chị Lộc Mùa lạc Ngƣời tị nạn Lặng lẽ Sa Pa Tiếng nói Rẻo cao Anh Keng Mùa nấm tràm Vợ nhặt Một chuyện vui Ngƣời cầm súng Chuyện bên bờ sông Vàm Cỏ Ngƣời thợ chữa đồng hồ Chuyện xóm tơi đƣờng hầm số Ông Bồng Về làng Thƣ nhà 181 Chiếc cán búa Ngƣời tù binh da đen Cái lạt Bức thƣ làng Mực Con trâu bạc 182 Bảng 3 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Như gió Nguyễn Huy Thiệp NXB Văn học, Hà Nội, 1995 Từ, tổ hợp từ Ngữ Tâm hồn mẹ Mệnh đề, câu Những học nông Chảy sơng thơn Tƣớng hƣu Sang sơng Khơng có vua Cún Truyện tình kể Chút thống Xn Hƣơng đêm mƣa Huyền thoại phố Vàng lửa phƣờng Muối rừng Kiếm sắc Con gái thủy thần Đời mà vui Giọt máu Thƣơng nhớ đồng quê Mƣa Chăn trâu cắt cỏ Những ngƣời thợ xẻ Thƣơng cho đời bạc Phẩm tiết Hạc vừa bay vừa kêu thảng Nguyễn Thị Lộ Khơng khóc California Trƣơng Chi Thiên văn 183 Mƣa Nhã Nam Tội ác trừng phạt Những gió Hua Tát 184 Bảng 4 Khảo sát đơn vị ngôn ngữ nhan đề tập Màu xanh man trá Lê Minh Khuê NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2005 Từ, tổ hợp từ Ngữ Mệnh đề, câu Mong manh Câu chuyện tác thành Mờ mờ nhân ảnh Ronan Keating Thành phố nhà cao Qua vƣờn đến trƣờng Đầu máy nƣớc Vƣờn xa Đùa cho vui Ngọn lửa Bánh khoái miền Trung Số phận may rủi Hai bờ Xứ lạ Nƣớc cỏ xanh Trò chơi cờ bạc Lƣng chừng trời Màu xanh man trá Quà biển 185 Bảng 5 Khảo sát kiểu tình tập Truyện ngắn Việt Nam kỷ XX giai đoạn 1976 - 2000, tập 29 NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2002 Kiểu tình STT Tên truyện Nhận thức Hành động Tâm trạng Hoa cho ngày cƣới X Mùa hoa cải bên sông X Ngƣời đàn bà tóc trắng X Hai ngƣời đàn bà xóm Trại X Hồi ức làng Che X Ốc mƣợn hồn X Ngƣời hùng trƣờng làng X Sau mùa trăng X Ngải đắng núi X 10 Khơng nhan sắc 11 Có đêm nhƣ 12 Ngƣời lùn truyện cổ Grim 13 Tiên bay trời X 14 Sinh vào đêm trăng sáng X 15 Chiếc bình đựng ký ức X X X X Tổng số, tỉ lệ 20% 186 33% 47% MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 LÝ DO CHọN Đề TÀI ĐốI TƢợNG VÀ PHạM VI NGHIÊN CứU MụC ĐÍCH VÀ NHIệM Vụ NGHIÊN CứU PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CứU ĐÓNG GÓP MớI CủA LUậN ÁN 10 CấU TRÚC CủA LUậN ÁN 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11 TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 11 Nghiên cứu lý luận truyện ngắn 11 Nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 17 Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 21 Nghiên cứu thành tựu phong cách tác giả, nhóm tác giả tiêu biểu 22 Nghiên cứu thành tựu đổi nghệ thuật truyện ngắn 25 Nghiên cứu tương tác truyện ngắn với thể loại khác văn học Việt Nam sau 1975 28 Tiếp cận tác phẩm truyện ngắn cụ thể 29 CÁC KIỂU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 34 Các kiểu truyện tiếp tục khuynh hƣớng vận động trƣớc năm 1975 .36 Các kiểu truyện mang khuynh hƣớng đƣơng đại 38 CHƢƠNG 2 TÌNH HUỐNG VÀ KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 TÌNH HUỐNG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 44 Sự chuyển biến nghệ thuật xây dựng tình 45 Các kiểu tình .48 Tình nhận thức 48 Tình hành động 51 Tình tâm trạng 54 KẾT CẤU TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 58 Các phƣơng thức kết cấu 61 Kết cấu theo lôgic nhân 62 Kết cấu đa tầng 69 Kết cấu lắp ghép 71 Kết cấu liên hoàn 75 187 Các thành tố bổ trợ kết cấu 77 Nhan đề 77 Mở đầu 82 Đoạn kết 84 CHƢƠNG 3 NHÂN VẬT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 90 CÁC KIỂU NHÂN VẬT CHỦ ĐẠO 91 Nhân vật tƣ tƣởng 93 Nhân vật tính cách – số phận 98 Nhân vật tự chủ 98 Nhân vật bi kịch 102 Nhân vật tha hóa 109 CÁC PHƢƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT .114 Khắc họa chân dung – ngoại hình, hành động nhân vật .115 Phân tích tâm lý nhân vật 116 Sáng tạo chi tiết nghệ thuật 121 CHƢƠNG 4 NGÔN NGỮ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 .129 NGÔN NGỮ GẦN GŨI VỚI NGÔN NGỮ ĐỜI SỐNG THÔNG TỤC 129 Trên phƣơng diện từ ngữ .130 Trên phƣơng diện cú pháp 138 TÍNH CHẤT GIAO THOA THỂ LOẠI TRONG NGƠN NGỮ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ thơ 144 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ kịch 149 Sự giao thoa ngôn ngữ truyện ngắn ngôn ngữ báo chí 153 KẾT LUẬN 159 DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .163 TÀI LIỆU THAM KHẢO 164 PHỤ LỤC……………………………………………………………………… 179 188 ... nghiên cứu Với đề tài Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại, luận án hƣớng đến mục đích nhận diện đặc điểm thi pháp truyện ngắn Việt Nam sau năm 1975, từ tổng kết, khái quát... nghiên cứu - Chƣơng 2 Tình kết cấu truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 3 Nhân vật truyện ngắn Việt Nam sau 1975 - Chƣơng 4 Ngôn ngữ truyện ngắn Việt Nam sau 1975 10 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN... tạo nên nhìn khái qt đối tƣợng nghiên cứu từ góc độ thể loại Nghiên cứu hệ vấn đề truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Bên cạnh cơng trình nghiên cứu tổng quan truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam sau 1975 – nhìn từ góc độ thể loại , Đang tải.... xem toàn văn Thông tin tài liệu Ngày đăng 31/03/2015, 1426 . XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN _________________ HOÀNG DĨ ĐÌNH (HUANG YITING NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ . NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 TRÊN TƯ LIỆU TRUYỆN NGẮN BA NHÀ VĂN NỮ Chuyên ngành Lý luận ngôn ngữ Mã số 62 22 01 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC . trúc văn bản tự sự qua các truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1995 2 003, Nguyễn Thị Thu Thủy với Luận án Tiến sĩ Ngữ văn về đề tài Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 iểm - Xem thêm -Xem thêm Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trên tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ, Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 Trên tư liệu truyện ngắn ba nhà văn nữ, , CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT, 1 Tổng quan những thành quả nghiên cứu về Ngôn ngữ trần thuật., 2 Quan niệm về "trần thuật" và "ngôn ngữ trần thuật", 3 Quan niệm về "người trần thuật" và phân loại "người trần thuật", 4 Quan niệm về "điểm nhìn" và phân loại "điểm nhìn", 5 Quan niệm về Thời gian và các yếu tố liên quan, CHƯƠNG 2. NGƯỜI TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ, 2 Người trần thuật với cấp bậc trần thuật và trong quan hệ với truyện, 3 Người trần thuật với mức độ được nhận biết trong truyện, 4 Người trần thuật trong quan hệ với tác giả tiềm ẩn, 2 Mối quan hệ giữa các yếu tố của điểm nhìn, 3 Mối quan hệ giữa điểm nhìn và nhân xưng, 4 Các phương thức làm thay đổi điểm nhìn, CHƯƠNG 4. THỜI GIAN TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ, 2 Tính chất thời gian “một chiều”, 3 Tính chất thời gian “đa chiều”, 4 Các phương thức biểu hiện thời gian trong văn bản, TÀI LIỆU THAM KHẢO Ngày đăng 09/11/2012, 1055 Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975-1985 Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS. TS PHAN TRỌNG THƯỞNG Thái Nguyên, 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cảm ơn Để hoàn thành luận văn này tôi xin chân thành cảm ơn - Ban giám hiệu, Ban chủ nhiệm khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học trường Đại học Sư Phạm Thái Nguyên. - Các thầy cô giáo ở Viện Văn học, trường Đại học Sư phạm I Hà Nội, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội đã trực tiếp giảng dậy trong suốt khoá học. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó giáo sư - Tiến sĩ Phan Trọng Thưởng, người thầy đã động viên, giúp đỡ tôi rất nhiều để luận văn có thể hoàn thành. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Trần Quốc Tuấn Nam Định đã động viên, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Tác giả luận văn Nguyễn Thị Minh Nguyệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục lục Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 3 Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975 . 3 Những bài nghiên cứu về tác giả 7 Những bài viết về tác phẩm 8 3. Nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu 9 nhiệm vụ nghiên cứu . 9 Đối tượng nghiên cứu 9 4. Phương pháp nghiên cứu . 10 5. Đóng góp của luận văn 10 6. Cấu trúc của luận văn 10 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975- 1985 1. Bối cảnh lịch sử, xã hội 12 Tình hình đất nước sau chiến tranh .12 Thống nhất về mặt nhà nước, khôi phục kinh tế, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội . 13 Đấu tranh bảo vệ Tổ quốc . 14 2. Tình hình phát triển của văn xuôi . 15 3. Diện mạo của truyện ngắn 19 Chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người . 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng .35 Thành tựu của truyện ngắn 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975 . . 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư . 51 2. Sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn 1975- 1985 . 62 Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư 63 Cảm hứng đạo đức giữ vị trí quan trọng . 65 Sự trở lại của cảm hứng bi kịch . . 69 cảm hứng phê phán 71 Cảm hứng nhân văn .72 Chương III Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Đặc điểm kết cấu cốt truyện .75 Khái niệm và vai trò của cốt truyện 75 Sự vận động trong việc xây dựng cốt truyện của truyện ngắn sau 1975 76 Các đặc điểm kết cấu cốt truyện . 80 2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn 1975-1985 87 Các kiểu nhân vật mới . 89 . Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật . 96 3. Nghệ thuật trần thuật .103 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật . 107 Phần kết luận 110 Tài liệu tham khảo 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 Phần mở đầu 1. Lí do chọn đề tài 5 khẳng định thì giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ đầu những năm 80 là thời kỳ chuẩn bị tích cực, là bước khởi động tạo đà cần thiết cho công cuộc đổi mới văn học. Có thể coi văn học giai đoạn 1975 -1985 là thời kỳ tiền trạm cho cái mới. Chính vì vậy, khi tìm hiểu tiến trình đổi mới của văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng không thể không tìm hiểu bước đầu xây nền đắp móng trong giai đoạn tiền đổi mới. Dẫu đó là sự chuẩn bị âm thầm nhưng rất tích cực và cần thiết, là bước tạo đà cho quá trình đổi mới văn học hôm ngắn không phải là thể loại duy nhất nhưng lại tập trung nhiều nhất những yếu tố của một nền văn học đang đổi mới như văn học Việt Nam sau đại thắng mùa xuân năm 1975. Chính những điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. 2. Lịch sử vấn đề. Những bài nghiên cứu, những ý kiến về những vấn đề khái quát của truyện ngắn sau 1975. Trong bài “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975” Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy, Nxb Giáo dục, 2006, tác giả Nguyễn Văn Long nhận xét Từ 1975- 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. Có thể coi đó là một nhận xét khái quát về đặc điểm của văn xuôi giai đoạn 1975- 1985, trong đó có truyện ngắn. Một thể loại luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 luôn có mặt nhiều, khi lại nhận lãnh trách nhiệm dò lối, mở đường Vương Trí Nhàn ở những giai đoạn lịch sử nhiều biến động. Đi sâu vào những vấn đề của thể loại truyện ngắn ở giai đoạn này, có nhiều ý kiến đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Những năm liền ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời kỳ chiến tranh. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng nhiên, trong truyện ngắn và cả truyện vừa thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh khắc thưòng nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm truyện ngắn cũng có ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh Nguyễn Văn Long, “Văn xuôi những năm 1975-1985 viết về cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ”- Văn nghệ quân đội, tháng 4-1985. Cùng quan điểm với nhận định trên, tác giả Phan Cự Đệ trong văn học Việt nam 1975 -1985, Tác phẩm và dư luận, Nxb Hội nhà văn, 1997 cho rằng cách khai thác những vấn đề chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà đi sâu vào tâm lý, tiềm thức. Nhà văn Nguyên Ngọc còn khẳng định vai trò hàng đầu của truyện ngắn trong quá trình tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt của văn học giai đoạn này. Theo Nguyên Ngọc, truyện ngắn hiện nay đang vượt qua tiểu thuyết. Nó sớm đạt đến tính khách quan xã hội cao hơn, nó đi thẳng vào vấn đề thân phận con người, thế giới bên trong của con người, ý nghĩa nhân sinh, lẽ sống, con người ở đời sâu và sắc hơn “Văn xuôi sau 1975 - thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí văn học số 4 -1991. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Đó cũng là nhận xét của nhà nghiên cứu Nguyễn Tuấn Anh khi ghi nhận công lao của truyện ngắn trong thời kỳ đầu của quá trình đổi mới văn học. Truyện ngắn mở ra những mũi thăm dò, khai thác và đặt ra nhiều vấn đề đạo đức thế sự nhanh chóng đạt đến một độ chín cả trong hình thức và nội dung mà tiểu thuyết còn chưa kịp đạt đến “Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định”, Nxb Khoa học xã hội, 2001. Thật ra, nhận định của hai tác giả về vai trò hàng đầu của truyện ngắn chỉ đúng trong tình hình văn học ở giai đoạn đầu những năm 80 khi văn học thực sự bước vào giai đoạn đổi mới. Điều này cũng được tác giả Phạm Mạnh Hùng thừa nhận trong cuốn sách “ Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX” Nxb Đại học quốc gia Hà nội, H, 1999 Truyện ngắn vẫn xuất hiện đều đặn trong các báo, tạp chí văn nghệ trong Nam ngoài Bắc với một số lượng không nhỏ. Trong khoảng 5 năm đầu của thời kỳ hoà bình, truyện ngắn vẫn tiếp tục những đề tài và chủ đề, phong cách, bút pháp và các giọng điệu như đã thấy trong văn học trước đó. Nhưng từ những năm 80 bắt đầu xuất hiện nhiều truyện ngắn có dấu hiệu mới về tư tưởng, về nghệ thuật. Theo tác giả, cái mới trong những truyện ngắn này là việc đi vào những đề tài mới của cuộc sống sau chiến tranh, hay vẫn viết về chiến tranh nhưng với cách nhìn mới với những mối quan tâm, suy tư, trăn trở mới. Số phận con người trong cuộc sống được chú ý khai thác ở góc độ không chỉ ở cái phi thường mà còn ở cả cái bình thường. Xu thế mới này ở truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được tác giả Bùi Việt Thắng khẳng định và lý giải truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh - đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Tính chất phức tạp của đời sống tinh thần xã hội là kết quả tất yếu của hậu quả chiến tranh, của đời sống kinh tế khó khăn, của sự xâm nhập các trào lưu tư tưởng từ bên ngoài vào. Nhìn chung các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 viết về sự thật. Chuyện đời thường vì thế nổi trội trong đa số truyện ngắn trong giai đoạn này, thậm chí đã hình thành một quan niệm văn học đời thường “Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại”, Nxb Đại học quốc gia Hà nội, 2000. Về hình thức truyện ngắn 1975 - 1985 cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu đưa ra sự đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996 cho rằng trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ. Theo tác giả, truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh nhậy những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Tác giả Nguyễn Văn Long “Văn học việt nam sau 1975. Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy”. Nxb Giáo dục. H. 2006 khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật khẳng định từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra [...]... lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Chương III Những đổi mới bước đầu về nghệ thuật truyện ngắn 19751985 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Phần nội dung Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện ngắn Việt nam 1975 - 1985 1 Bối cảnh... đầu của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong quan hệ thống nhất giữa nội dung và hình thức biểu hiện Từ đó thấy được sự vận động của truyện ngắn sau chiến tranh trong bức tranh chung của truyện ngắn hiện đại Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung khảo sát các truyện ngắn trong giai đoạn từ 19751985 Tuy vậy, truyện ngắn thực sự thay đổi là từ những năm 1980 trở đi Hơn nữa số lượng truyện ngắn trong... luận án đã có, chúng tôi thấy nhìn chung việc nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn sau 1975 đã lật xới lên được nhiều vấn đề Đã có những công trình nghiên cứu sâu sắc về một số vấn đề như tác giả, tác phẩm tiêu biểu cụ thể nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến đánh giá chủ yếu ở dạng phác thảo... hợp của câu chữ Truyện ngắn - nỗi run sợ”,Tạp chí Văn nghệ quân đội, Tháng 7,1992 Nhìn một cách tổng thể, truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 có xu hướng vươn tới sự khái quát, triết luận về đời sống, kể ít tả nhiều và sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tái tạo đời thế, truyện ngắn ở giai đoạn tiền đổi mới này như một khúc chảy mạnh mẽ, tạo nên dòng chảy liên tục của truyện ngắn dân tộc suốt... cứu một cách cụ thể sâu sắc những đặc điểm của truyện ngắn ở giai đoạn phôi thai của tiến trình đổi mới Trên tinh thần tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước đã gợi ý cho chúng tôi lựa chọn đề tài Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985 Trong luận văn này, chúng tôi sẽ đặt trọng tâm nghiên cứu vào việc khảo sát những dấu hiệu mới của truyện ngắn nói riêng đặt trong tiến trình phát triển... của truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 trong cái nhìn tổng thể và toàn diện Hy vọng luận văn sẽ góp phần vào việc nhìn nhận quá trình vận động của thể loại truyện ngắn trong đời sống văn học và là bước tạo đà, gợi mở cho việc nghiên cứu truyện ngắn ở những giai đoạn sau 6 Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chia làm ba chương Chương I Bối cảnh lịch sử và diện mạo truyện. .. giai đoạn sau Những bài viết về tác phẩm Trong khoảng 10 năm từ 1975 đến 1985 số lượng truyện ngắn in trên các báo quả là không nhỏ ở đây chúng tôi chỉ điểm qua tình hình nghiên cứu một số tác phẩm được giải trên các tạp chí, các tập truyện có tác động không nhỏ đến diện mạo văn học giai đoạn này hoặc đánh dấu sự đổi mới trong sự nghiệp của các cây bút viết truyện ngắn Có thể kể đến các tập truyện. .. những truyện ngắn của một số tác giả đã định hình và có thể xem là tiêu biểu cho xu hướng đổi mới; những truyện ngắn được giải thưởng trong các cuộc thi ở các báo trung ương, những tập truyện ngắn có tiếng vang hoặc gây dư luận trong quần chúng Tuy nhiên đó cũng chỉ là sự khoanh vùng có tính chất tương đối để luận văn có thể tập trung hơn vào những vấn đề đổi mới của truyện ngắn trong một giai đoạn. .. loại, truyện ngắn đã chưng cất những mảng hiện thực của cuộc sống chiến tranh Mặc dù phần lớn truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 viết về chiến tranh vẫn bám vào các sự kiện, vẫn lấy sự kiện làm trục chính song cách triển khai vấn đề ở những truyện ngắn này cũng không hoàn toàn giống trước Những hoàn cảnh ngặt nghèo, những khúc bi thương nhất của chiến trận vẫn được khắc hoạ đậm nét trong nhiều truyện ngắn ... xuôi nói riêng bao gồm nhiều vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở đây chúng tôi chỉ đi vào lĩnh vực sáng tác của văn xuôi trong giai đoạn 1975 - 1985 để từ đó có được cái nhìn khách quan, tổng thể về diện mạo của truyện ngắn trong giai đoạn này Với dân tộc Việt Nam, dấu mốc 1975 đánh dấu sự sang trang của lịch sử đất nước chuyển từ thời chiến sang thời bình, từ cuộc sống với những quy luật không . nhưng chủ yếu nghiêng hẳn về giai đoạn từ sau 1986, giai đoạn phát triển rực rỡ của truyện ngắn. Còn với truyện ngắn ở giai đoạn 1975- 1985, các ý kiến. truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975- 1985. Chương II Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn Việt Nam - Xem thêm -Xem thêm Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985, Truyện ngắn việt nam giai đoạn 1975-1985, , Lí do chọn đề tài, Những bài viết về tác phẩm, Phương pháp nghiên cứu Đóng góp của luận văn Cấu trúc của luận văn, Sự tiếp nối của những thế hệ nhà văn tài năng, .Thành tựu của truyện ngắn, Sự tiếp tục đề tài chiến tranh, Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư, Chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự, đời tư, Cảm hứng đạo đức thế sự giữ vị trí quan trọng, Sự trở lại của cảm hứng bi kịch, Cảm hứng phê phán, Xu hướng lắp ghép liên văn bản, Vai trò của biến cố trong diễn biến cốt truyện, Đặc điểm của đoạn kết trong cấu trúc truyện, Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau, Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật

truyện ngắn việt nam sau 1975