truyện ngắn sau 1975
Nhân vật phụ nữ thủy chung chờ đợi. Môtip nhân vật phụ nữ thủy chung chờ đợi xuất hiện khá nhiều trong truyện ngắn chiến tranh từ sau 1975. Điểm chung của họ là chờ đợi thời gian quá dài, thậm chí hơn nửa đời người, vẫn luôn giữ mối chung tình với người đi xa dù có thể còn chưa một lời thề nguyền hẹn ước.
20. Đặng Anh Đào (1996), "Truyện cực ngắn", Tạp chí văn học, Số 2, tr. 20 - 24. 21. Đặng Anh Đào (2002), "Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam", Tạp chí văn học, Số 2, tr.
Thành tựu của truyện ngắn 37 Những thay đổi về đề tài và cảm hứng trong truyện ngắn việt nam 1975-1985 1. Những thay đổi về đề tài ở truyện ngắn sau 1975 . . 41 Sự tiếp tục đề tài chiến tranh 41 . Sự xuất hiện và chiếm lĩnh của đề tài thế sự, đời tư . 51 2. Sự
Sau 1975, sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp thực sự tạo thành bước ngoặt quan trọng. Có hai cơ sở cho phép ta nói về bước ngoặt này. Lời thoại trong truyện ngắn "Tướng về hưu"// Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp (Phạm Xuân Nguyên sưu tầm và biên soạn), Nxb Văn hoá thông tin, H
Cùng Phòng GD&DT Sa Thầy đọc bài viết Bài tuyên truyền về ngày 30/4 - 1/5. Ngay từ đầu tháng 4 năm 1975, Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đã ra chỉ thị cho mặt trận đồng bằng sông Cửu Long chuẩn bị gấp cho tổng công kích và tổng khởi nghĩa phối hợp với mặt
Đó băn khoăn, lý thúc người viết đến với đề tài Đặc trưng truyện ngắn T3 Việt Nam từ 1975 đến đầu thập kỷ 90 Luận văn chọn điểm mốc 1975 đến đầu thập kỷ 90 xuất phát từ điều mặt khác, song nhìn chung, truyện ngắn đạt thành tựu định,
Cashberry Lừa Đảo. Văn học đổi mới sau 1975 và những người mở đường tinh anh. Sáng tác văn học là một quá trình của sự tìm tòi sáng tạo của mỗi nhà văn. Bên cạnh đó sự kế thừa, phát huy và phát triển cũng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sự hoàn thiện cho mỗi trào lưu, khuynh hướng văn học. Văn học sau 1975, với sự đổi mới về mọi mặt từ đời sống kinh tế văn hóa xã hội cho đến nghệ thuật, đã chắp cánh cho văn học bay cao, bay xa, bay đến miền đất của sáng tạo, của tự do, vứt bỏ mọi trói buộc, xiềng xích. Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam có một bước chuyển mình lớn, với sự xuất hiện của nhiều tác phẩm có giá trị, nhiều tác giả ưu tú, nhiều tư tưởng mới, tuyên ngôn mới trong sáng tác đã ra đời. Từ đó nhiều khuynh hướng văn học ra đời với những nét độc đáo riêng. Nói đến các khuynh hướng văn học sau năm 1975 phải kể đến ba khuynh hướng cơ bản sau khuynh hướng tiếp tục mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân; hay hướng vào đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân; và khuynh hướng đi sâu vào những vùng mờ của tâm linh, vô thức và đưa thơ theo hướng tượng trưng siêu thực. 1. Những điểm mới của truyện ngắn sau năm 1975 so với giai đoạn trước. Quan niệm nghệ thuật về con người Sau 1975 con người trở về với cuộc sống đời thường, đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp của đời sống thường nhật. Con người được miêu tả trong văn học không còn đại diện cho cái chung nữa mà được nhìn nhận ở nhiều bình diện, trong nhiều mối quan hệ, đa dạng, phong phú hơn. Đổi mới về phương diện nghệ thuật + Đổi mới về kết cấu. Hầu hết các tác phẩm văn xuôi ra đời ở thời kì đổi mới đều được tổ chức theo kết cấu mở kết cấu bỏ ngỏ, để người đọc tự rút ra kết luận cho riêng mình. + Đổi mới về điểm nhìn trần thuật Các hình thức trần thuật Trần thuật từ ngôi thứ ba, trần thuật từ ngôi thứ nhất; cách tổ chức điểm nhìn trần thuật Sử dụng một điểm nhìn trần thuật hoặc phối hợp các điểm nhìn trần thuật. + Giọng điệu trần thuật Không chỉ kể bằng giọng của mình, bằng lời của người dẫn chuyện mà các tác giả còn hoá thân thành nhiều giọng điệu phong phú khác nhau Có đối thoại, có độc thoại, có ngôn ngữ trực tiếp, có ngôn ngữ nửa trực tiếp. + Đối tượng phản ánh Cuộc sống của con người ngay sau chiến tranh Ở Một người Hà Nội, đó là những ngày tháng tiếp quản thủ đô sau chiến thắng Điện Biên Phủ; ở Chiếc thuyền ngoài xa, đó là sau năm 1975, đất nước thống nhất và trước công cuộc đổi mới đất nước Mùa lá rụng trong vườn- Ma Văn Kháng. Trên nền thực tại ấy, vấn đề được đặt ra không còn là số phận của dân tộc, của cộng đồng trong thử thách máu lửa, trong đấu tranh sinh tử, mất còn, mà là thân phận con người trong cuộc sống đời thường. + Không gian nghệ thuật được miêu tả Chủ yếu là không gian đời tư, ở đó nhân vật bộc lộ rõ nét nhất bản chất, tính cách của mình một xóm chài ven biển miền Trung, nơi mỗi gia đình cư ngụ trên một chiếc thuyền lưới vó; một ngôi nhà cổ kính của Hà Nội;… +Nhân vật chính là những con người của lam lũ đời thường không còn là “con người chính trị”, “con người mới” với bao nhiêu phẩm chất lí tưởng từng được nói đến nhiều trong văn học trước 1975, như Nghệ sĩ Phùng không chỉ toàn tâm toàn ý với nghệ thuật mà còn khôn nguôi trăn trở trước muôn lẽ đời thường; Người đàn bà hàng chài với đói khổ cùng cực, vất vả, lam lũ, thiếu đói triền miên. Đề tài Truyện sau năm 1975 ngày càng mở rộng, hướng tới cảm hứng thế sự, đời tư thay cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn của văn học trước 1975. 2. Điểm mới của thơ trữ tình sau năm 1975 so với giai đoạn trước. Sau 1975, thơ trữ tình có những thay đổi phức tạp và đa dạng. Thơ trữ tình giai đoạn này vận động theo nhiều xu hướng khác nhau, bên cạnh những khuynh hướng như tiếp tục mạch cảm hứng sử thi, nhưng thiên về bi tráng và gắn với những trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân; hay hướng vào đời sống thế sự và trở về với cái tôi cá nhân, thì khuynh hướng đi sâu vào những vùng mờ của tâm linh, vô thức và đưa thơ theo hướng tượng trưng siêu thực được xem là một khuynh hướng đặc biệt. – Sự mở rộng về đề tài Năm 1975 đánh dấu sự chuyển biến lớn trong lịch sử của dân tộc đất nước được thông nhất, đi vào thời kì đổi mới và hội nhập. Sự thay đổi về lịch sử kéo theo sự chuyển mình mạnh mẽ trong văn học. Giai đoạn này thơ không có những lôi cuốn, hấp dẫn như giai đoạn kháng chiến nhưng lại có sự mở rộng về đề tài tạo nên một diện mạo hoàn toàn mới + Thơ tình yêu phát triển mạnh và phong phú về giọng điệu + Khuynh hướng nhìn lại chiến tranh + Xu hướng tìm về cội nguồn – “thơ đồng nội” + Hiện tượng thơ tượng trưng, siêu thực. Những chuyển đổi về tư duy nghệ thuật trong thơ + Bên cạnh cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối như một quán tính nghệ thuật thì trong những năm cuối thập kỉ 70 và đầu những năm 80 của thế kỷ XX, “thơ đời thường” xuất hiện nhiều. + Các hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một hiện thực kỳ vĩ và cảm hứng sử thi không còn xuất hiện như là hiện tượng nổi bật của thơ ca giai đoạn này. Theo đó, thể tài thế sự, đời tư trở nên nổi bật ,cái tôi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa diện, nhiều bất an, giằng xé, hướng nội. Ý thức “cởi trói” để xác lập một quan niệm mới về nghệ thuật Đó là nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn giấu”, dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá trị mới. Đây là lý do khiến các nhà thơ sau 1975 chú ý nhiều hơn đến tính đa nghĩa của ngôn ngữ thơ ca, tạo ra tính nhòe mờ trong ngôn ngữ và biểu tượng. Xu hướng này muốn gia tăng chất ảo trong thơ, buộc người đọc phải giải mã các sinh thể nghệ thuật qua nhiều chiều liên tưởng văn hóa khác nhau. Đàn ghi ta của Lorca rất tiêu biểu cho nỗ lực cách tân thơ Việt Nam của Thanh Thảo, bài thơ có phần khó hiểu vì nó nhuốm màu sắc tượng trưng và siêu thực mà ông chịu ảnh hưởng ít nhiều ở chính nhà thơ hiện đại Tây Ban Nha Gar-xi-a Lorca mà ông hết lòng ngưỡng mộ. Cho nên khi dạy bài thơ này, trước hết giáo viên phải cung cấp và giảng giải cho học sinh một số kiến thức cơ bản về thơ tượng trưng, siêu thực – Cái Tôi trữ tình Trước hết, trong thơ hiện đại, dòng tượng trưng, siêu thực tạo nên sự khác biệt với thơ cổ điển và lãng mạn ở việc thể hiện vai trò “cái tôi”. Nếu trong thơ cổ điển, cái tôi bị phủ định, trong thơ lãng mạn, cái tôi lại được đưa lên vị trí độc tôn thì đối với các nhà thơ tượng trưng và siêu thực, cái tôi đã mất vị trí độc tôn, bị lu mờ, thậm chí trở thành cái tôi đa ngã. – Đặc sắc nghệ thuật Đề cao và chú trọng khai thác cái ngẫu hứng, cái bất ngờ trong thế giới vô thức; đề cao vai trò của cái hỗn độn, phi logic; sáp lại những hình ảnh vốn cách xa nhau trong thực tại để tạo nên trườ liên tưởng và tưởng tượ phong phú;…
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ******** PHẠM VĂN DŨNG ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN NGẮN NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học PGS -TS PHẠM THÀNH HƯNG Hà Nội - 2010 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 1 do chọn đề tài 1 sử vấn đề 3 3. Mục đích nghiên cứu 9 4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu 10 5. Cấu trúc luận văn 11 PHẦN NỘI DUNG 12 Chương I 12 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn 12 văn học mới Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền 12 tuyến Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới 14 chung của văn học và thời đại Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm 14 1975 Khát vọng đổi mới của nhà văn Nguyễn Minh Châu 16 Sáng tác Nguyễn Minh Châu thời kỳ chống Mĩ 18 Những đột phá quả cảm trên con đường đổi mới tư duy nghệ 18 thuật Những quan niệm mới về con người 18 Từ ý thức về con người cộng đồng tới ý thức về con người cá nhân 22 thế sự Con người chủ thể lịch sử hay nạn nhân của lịch sử cùng với 25 những khát vọng sống và mưu cầu hạnh phúc Chương II 34 NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG Nghệ thuật tổ chức cốt truyện 34 kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu 34 Kết cấu sự kiện 34 Kết cấu tâm lý 35 Truyện không có cốt truyện 37 Phối hợp nhiều kiểu kết cấu cốt truyện 39 Tổ chức sự kiện 41 chức một sự kiện duy nhất 41 Tổ chức mối tương quan giữa các sự kiện 42 Cách sắp xếp các thành phần cốt truyện 49 Nghệ thuật xây dựng tình huống 53 Tình huống nghịch lý 54 Tình huống tâm lý 54 Tình huống ngẫu nhiên 57 Quan hệ giữa nhân vật và hoàn cảnh 58 Hệ thống nhân vật xây dựng trong quan hệ đối chiếu tương 59 phản Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ bổ sung 65 Hệ thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với nghịch 69 lý Định nghĩa về nghịch lí 69 thống nhân vật được xây dựng trong mối quan hệ với những 70 nghịch lí trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 Hệ thống nhân vật xây dựng trong mối quan hệ với biểu tượng 83 Số phận nhân vật phản chiếu qua biểu tượng 85 Nội tâm và góc khuất tâm linh nhân vật biểu đạt qua biểu tượng 87 Chương III 91 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC KHÔNG GIAN - THỜI GIAN VÀ LỰA CHỌN GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT Tổ chức không gian nghệ thuật 91 Tổ chức không gian trong sự đối lập 92 Tổ chức không gian tư tưởng, không gian tâm lý, không gian 97 văn hoá thẫm mỹ Tổ chức không gian đời thường mang ý nghĩa nhân sinh 101 Tổ chức không gian với nhiều hình thức biểu tượng 102 Tổ chức thời gian nghệ thuật 105 Tổ chức theo trình tự thời gian 106 gian theo trật tự tuyến tính 106 Đảo trật tự thời gian 108 Tổ chức các lớp thời gian 110 Tổ chức thời gian đồng hiện 110 chức các mối liên kết thời gian 112 Tổ chức thời gian ảo, thời gian viễn tưởng 115 Mở rộng thời gian nghệ thuật 117 điệu trần thuật 118 hình thức trần thuật 118 Trần thuật từ ngôi thứ ba 118 thuật từ ngôi thứ nhất 120 Cách tổ chức điểm nhìn trần thuật 123 Sử dụng một điểm nhìn trần thuật 123 Phối hợp các điểm nhìn 126 Tổ chức giọng điệu trần thuật 131 PHẦN KẾT LUẬN 138 thật tổ chức hình tuợng có nhiều đặc sắc, cách tân 138 2. Nghệ thuật tổ chức cốt truyện và những cách tân so với truyền 139 thống 3. Nghệ thuật trần thuật có bước vận động mới với những cách tân cụ thể 140 MỞ ĐẦU do chọn đề tài Đã hai mươi mốt năm nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta, vĩnh biệt cuộc đời mà ông nặng lòng yêu quý. Nhưng một đời người - một đời văn khắc khoải “ Một niềm tin pha lẫn lo âu ” đối với con người của ông chắc sẽ còn để lại những dấu ấn khó phai nhạt trong lòng những người yêu văn chương. Sáng tác của ông đã được ghi nhận như một dấu son chói sáng trên con đường đổi mới và phát triển của văn học Việt Nam hiện đại. Trước năm 1975 Nguyễn Minh Châu được biết đến và yêu mến qua những trang viết về một hiện thực kháng chiến hào hùng, mang đậm chất sử thi. Tác phẩm của ông được xem như những bước tượng đài ngôn từ tráng lệ về sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong các tác phẩm của ông, ý thức cộng đồng bao trùm tất cả, tình yêu Tổ quốc là hệ quy chiếu duy nhất và cao cả để định giá mọi quan hệ từ gia đình cho đến xã hội, mọi tình cảm từ riêng chung của con người. Trong hoàn cảnh chiến tranh lúc này rất cần sự đồng lòng, đồng chí cao độ. Điều đó như một tất yếu lịch sử. Hoà mình vào dòng chảy mãnh liệt của lịch sử thời đại chống Mĩ, những trang viết của Nguyễn Minh Châu đã hoàn thành sứ mệnh văn chương của mình. Đất nước thống nhất giang sơn thu về một mối, kết thúc cuộc đấu tranh giành quyền sống của dân tộc chúng ta bước vào một cuộc đấu tranh cho quyền sống của mỗi con người. Trong cuộc đấu tranh lâu dài giữa đời thường tưởng như giản đơn ấy, bao vấn đề nhân sinh đã đặt ra cho con người nói chung, mỗi nhà văn như Nguyễn Minh Châu nói riêng những trăn trở và buộc họ phải tự đổi mới mình cho phù hợp với yêu cầu của thời đại. Văn học sử thi dần dần bộc lộ những sơ lược, công thức, khó đáp ứng được với cuộc sống mới với bao phức tạp, bức xúc bôn bề. Với sự trăn trở của một ngòi bút có lương tâm và trách nhiệm Nguyễn Minh Châu đã âm thầm lặng lẽ tìm hướng đi, tự đổi mới chính mình, với những truyện ngắn mang tính luận đề, và sau 1 đó là một loạt truyện ngắn đậm chất đời tư - thế sự, khám phá con người và hiện thực ở nhiều chiều đa dạng phong phú, với những đổi mới và cách tân nghệ thuật. Không nằm ngoài những khai phá khác, những đổi mới ấy không lập tức được chấp nhận và ghi nhận, đôi lúc trở thành những tranh luận mang tính diễn đàn. Hàng loạt những bài phê bình xuất hiện, khen có, chê có về truyện ngắn của ông, thậm chí báo Văn nghệ đã phải tổ chức cả một cuộc hội thảo để lật các mặt của vấn đề nhằm tìm ra chân lí. Qua nghiên cứu, đánh giá ở nhiều góc độ, phương diện khác nhau của các nhà nghiên cứu, phê bình, bạn đọc… đặc biệt qua sức sống mãnh liệt của những truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trong thời gian cho đến nay ta vẫn thấy rõ giá trị và vị trí mở đường " tinh anh và tài năng " Nguyên Ngọc đã được khẳng định chắc chắn. Đó là những thành tựu không chỉ của nhà văn mà còn là của cả nền văn học hiện đại Việt Nam trong chặng đường đổi mới văn học. Đánh giá về các tác phẩm của mình Nguyễn Minh Châu đã từng nhận " Mình viết văn suốt đời tràng giang đại hải, có khi chỉ còn lại vài cái truyện ngắn ". Với hi vọng nhỏ nhoi muốn góp một phần vào sự hoàn thiện trong nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu và sự nghiệp văn học của ông nói chung, tôi quyết định chọn đề tài " Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhìn từ góc độ thi pháp " để nghiên cứu. Đồng thời qua đó, tôi mong muốn được góp phần tìm hiểu sự vận động của quá trình văn học trong giai đoạn thời kì đổi mới, tìm hiểu thêm một số vấn đề về nghệ thuật truyện ngắn nhìn từ góc độ thi pháp học, một vấn đề đang được xem là trung tâm của tự sự học hiện đại. Thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng luận văn của mình có ý nghĩa giúp mình mở rộng kiến văn, từ đó sẽ giảng dạy có hiệu quả hơn, đáp ứng được một cách tốt hơn những yêu cầu giáo dục trong thời kỳ mới. sử vấn đề 2 Nguyễn Minh Châu là một nhà văn đã để lại nhiều dấu ấn đặc sắc trong lịch sử văn học nước nhà. Cho đến nay đã có hàng trăm bài viết , hàng chục công trình nghiên cứu lớn nhỏ đề cập đến nhiều khía cạnh về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn. Theo thư mục tài liệu nghiên cứu tác giả, tác phẩm Nguyễn Minh Châu do TS Nguyễn Trọng Hoàng và Nguyễn Đức Khuông biên soạn năm 2002, số lượng bài viết về Nguyễn Minh Châu đã lên đến con số 150. Đó là chưa kể đến các luận án Tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về Nguyễn Minh Châu của các nghiên cứu sinh, học viên cao học qua nhiều thế hệ. Các bài viết ấy đã được tập hợp , tuyển chọn và giới thiệu trong các cuốn Kỷ yếu hội thảo 5 năm ngay mất Nguyễn Minh châu - Hội văn nghệ Nghệ An ,1995; Nguyễn Minh Châu - con người và tác phẩm [ 3 ]; Nguyễn Minh Châu - về tác giả và tác phẩm [ 21 ]. Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn nhất là những truyện viết sau năm 1975 - là mảng sáng tác thu hút được sự chú ý đặc biệt và gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu phê bình và đông đảo công chúng, mà một trong những lý do là bởi sự cách tân nghệ thuật của nó. Cuộc " Trao đổi về những truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu " [42 ] đã chứng tỏ sức thu hút rộng rãi ấy. Tuy gây ra nhiều ý kiến trái chiều , song qua thời gian những tìm tòi mở đường của Nguyễn Minh Châu nhanh chóng được khẳng định. Truyện ngắn của ông dần dà được mặc nhiên thừa nhận , ngày càng có vị trí vững vàng trong công chúng văn học, trở thành đối tượng cho những sự phân tích kỹ lưỡng , thấu đáo và khoa học. Cùng với sự ra đời của các tập truyện "Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê"... đặc biệt là tập truyện cuối " Cỏ Lau" là sự xuất hiện của hàng loạt bài viết phân tích thành công cũng như hạn chế của Nguyễn Minh Châu trong các tập truyện đó mà chủ yếu là đánh giá cao những thành tựu thể hiện sự vận động đổi mới trong tư duy nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người , phương thức thể hiện ... Có thể kể đến một số bài viết nổi bật của Lại Nguyên Ân [ 3,201-208 ], Ngô Thảo [ 51 ], Huỳnh Như Phương [ 3,164 -170 ],Trần Đình 3 Sử [ 46 ], Hoàng Ngọc Hiến [ 17 ], Đỗ Đức Hiểu [ 18 ], Lã Nguyên Tùng [ 37 ], Nguyễn Văn Hạnh [ 14 ], Chu Văn Sơn [45], Lê Văn Tùng [ 57 ]... Về nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tuy chưa có một công trình nào nghiên cứu xem xét một cách toàn diện , trực tiếp đặc điểm truyện ngắn nhìn từ góc độ thi pháp, song về các yếu tố liên quan đến nghệ thuật truyện ngắn hoặc là những phương diện của nghệ thuật truyện ngắn như nhân vật, cốt truyện , tình huống, nghệ thuật trần thuật ... thì đã có một số bài viết và công trình đề cập đến. Xem xét nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Ngô Thảo có cùng quan điểm với Nguyễn Thị Minh Thái sau này , cho rằng nhân vật gây được chú ý hơn cả trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là nhân vật nữ, những người phụ nữ đi qua chiến tranh. Tác giả đánh giá " Nguyễn Minh Châu đã bộc lộ thế mạnh của một cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lý khá phức tạp của một con người không đơn giản" [ 51 ]. Phạm Vĩnh Cư lại tìm thấy trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu những nhân vật tiểu thuyết đích thực Khách ở quê ra, Phiên chợ Giát Một con người nhiều chiều, một tính cách vừa mâu thuẫn vừa thuần toàn, vừa cá biệt vừa tiêu biểu, vừa là quá khứ của lịch sử tối tămvừa toả ánh sáng của nhân tính vĩnh hằng của những giá trị đạo đức muôn đời [ 11 ] Nguyễn Tri Nguyên nêu lên một kiểu nhân vật mới xuất hiện trong nhiều sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu Kiểu nhân vật hướng nội [ 38]. Trong một công trình nghiên cứu khá đầy đủ về Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan đã phân loại nhân vật trong sáng tác Nguyễn Minh Châu thành hai loại nhân vật đặc trưng nhất thể hiện được phong cách nghệ thuật của nhà văn nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách - số phận. Tác giả đã nhận xét " Nếu trước những năm 80 , Nguyễn Minh Châu chủ yếu chỉ xây dựng dạng nhân vật loại hình thì càng về sau , ngòi bút của ông đã vươn tới 4 sự khắc hoạ nên các dạng nhân vật tư tưởng , nhân vật tính cách - những nhân vật có số phận riêng so với cộng đồng ". Đây là những nhân vật " được xây dựng theo một quan niệm nghệ thuật nhằm tạo ra khả năng thể hiện đời sống với chiều sâu nhất định, vừa mang thông điệp của tác giả , lại vừa tồn tại một cách khách quan như những "Con - người - này"; và hệ thống những nhân vật đó "đa dạng , đông đảo " trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Tôn Phương Lan cũng rút ra những thủ pháp trong xây dựng nhân vật của nhà văn miêu tả tâm lý, sử dụng đọc thoại nội tâm cùng yếu tố ngoại hình và tên gọi. Theo tác giả, quá trình tái hiện " Con người trong con người " đó là quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và " một trong những phương diện đặc sắc thể hiện phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu chính là nhân vật " [ 30 ] Cũng nhận diện về các kiểu loại nhân vật trong truyện ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu, Trịnh Thu Tuyết phân chia thành các loại nhân vật nhân vật tư tưởng, nhân vật tính cách , nhân vật thế sự, nhân vật số phận [ 58]. Đồng thời tác giả chỉ ra qúa trình vận động và đổi mới thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu từ các nhân vật lí tưởng đến những nhân vật đa chức năng phản ánh cuộc sống đời tư, thế sự như đã kể trên. Trịnh Thu Tuyết cũng đã khẳng định những đóng góp nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong xây dựng nhân vật thể hiện qua các biện pháp dùng độc thoại nội tâm, chi tiết miêu tả tâm lý xác thực, miêu tả ngoại hình sinh động [ 59 ]... Nhìn chung các bài viết, công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu đi vào tìm hiểu các kiểu loại nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, song chưa xem xét nghệ thuật tổ chức nhân vật trong các mối quan hệ cụ thể để kết cấu nên hình tượng nhân vật trong các tác phẩm của ông nói chung và trong truyện ngắn nói riêng . Về cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu , Trịnh Thu Tuyết đã nhận diện và phân tích khá rõ ba kiểu cốt truyện trong truyện ngắn sau 1975 của nhà văn Cốt truyện luận đề, cốt truyện sinh hoạt - thế sự, cốt truyện 5 đời tư. Qua đó tác giả đã chỉ ra sự vận động đổi mới trong phương diện kết cấu tác phẩm của Nguyễn Minh Châu là sự vận động từ những cốt truyện có hành động bên ngoài chiếm ưu thế đến những cốt truyện chủ yếu dựa vào sự vận đông tâm lý, cảm xúc bên trong. Từ đó Trịnh Thu Tuyết đã đi đến kết luận " Các sáng tác sau năm 1975 cuả Nguyễn Minh Châu đều thuộc kiểu cốt truyện không biến cố, không có những xung đột khép kín dựa vào diễn biến sự kiện . Cốt truyện được nới lỏng, chủ yếu dựa trên những xung đột tâm lý chồng chéo không mở đầu, không có cao trào, cũng không kết thúc , tựa dòng chảy " Tự nhiên, nhi nhiên " của cuộc sống vốn luôn tồn tại cùng những mâu thuẫn, những xung đột vĩnh cửu"[59,140]. Trịnh Thu Tuyết cũng khẳng định tuy đó không phải là kiểu cốt truyện mới mẻ trong lịch sử văn học nhân loại, song những đóng góp của Nguyến Minh Châu trong đổi mới cốt truyện mở rộng khả năng phản ánh hiện thực, làm giảm bớt tính loại biệt ước lệ và sự giản cách của nội dung nghệ thuật với hiện thực đời sống đã góp phần đưa văn học về gần hơn với cuộc đời, con người [ 59]. Bên cạnh những công trình nghiên cứu của Trịnh Thu tuyết, còn có một số ý kiến rãi rác đề cập đến cốt truyện trong các bài viết về Nguyễn Minh Châu của các nhà nghiên cứu phê bình khác. Chẳng hạn như Ngọc Trai có nhận xét khái quát " Phần lớn các truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là loại truyện luận đề những luận đề về đạo đức nhân văn, về tâm lý xã hội " [ 55 ]. Công trình nghiên cứu của Trịnh Thu Tuyết và một số ý kiến về cốt truyện nói trên chủ yếu đã nhận diện, phân chia các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu dựa trên những đặc trưng nội dung , đề tài của nó, song chưa đi vào cách tổ chức sự kiện , các thành phần cốt truyện theo quan điểm nghệ thuật kết cấu. Cùng với nhân vật, cốt truyện, tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng là một phương diện nghệ thuật được nhiều nhà nghiên cứu phê bình quan tâm và phân tích, đánh giá. Bùi Việt Thắng, trên quan điểm loại hình, đã nêu lên ba dạng tình huống cơ bản trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tình huống - tương 6 phản; tình huống - thắt nút; tình huống - luận đề, từ đó rút ra bài học nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu mối quan hệ đời sống - tình huống truyện là mối quan hệ biện chứng [58]. Trịnh Thu Tuyết đã nhận xét về tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu đã tạo ra những tình huống thử thách bên ngoài để các nhân vật của ông có điều kiện phát huy những sức mạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn vốn có của họ…Từ sau năm 1975, nhà văn chủ yếu tạo ra những tình huống tâm lý nhằm đưa nhân vật vào những cuộc đấu tranh nội tâm, những vận động tâm lý với những day dứt, sám hối hay chiêm nghiệm, nếm trải … Tác giả đã phân tích những dạng tình huống trong truyện ngắn sau năm 1975 của Nguyễn Minh Châu tình huống tự nhận thức, tình huống nghịch lý, tình huống bi kịch để làm rõ cho nhận thức trên [58]. Nghiên cứu phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, Tôn Phương Lan đã nêu rõ quan điểm coi việc tìm ra những dạng tình huống phổ biến trong sáng tác của ông là một thao tác để tìm hiểu sự “độc đáo , lặp lại và phát triển" trong quá trình tiếp cận đời sống hiện thực con người [30, 122]. Với quan điểm ấy, tác giả đi vào phân tích ba dạng tình huống trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu tình huống nhận thức, tình huống tương phản và tình huống thắt nút; từ đó đi đến nhận xét Sự tìm tòi của Nguyễn Minh Châu trong xây dựng tình huống diễn ra trên cả bề rộng lẫn bề sâu; đó cũng là một trong những phương diện thể hiện bản sắc riêng của Nguyễn Minh Châu [30]. Ngoài nhân vật, cốt truyện, tình huống, nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu cũng được xem xét ở nhiều yếu tố điểm nhìn, giọng điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ trần thuật, Trịnh Thu Tuyết [58], Tôn Phương Lan [30] có sự phát hiện thống nhất về điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu trần thuật từ ngôi thứ ba Trần thuật “biết hết”, trần thuật khách thể và trần thuật từ ngôi thứ nhất. Trịnh Thu Tuyết có nhận xét chung “trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975, tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật hay nói khác đi là điểm 7 nhìn trần thuật được tác giả chọn lựa và xác định rất tinh tế, phù hợp với mỗi kiểu loại nhân vật và thể tài để mỗi hình thức trần thuật có thể phát huy cao nhất tác dụng nghệ thuật của nó.” [58,41]. Về giọng điệu trần thuật theo Tôn Phương Lan, giọng chủ âm trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là giọng thâm trầm, trước 1980, giọng chủ âm này lẫn vào giọng trữ tình quen thuộc, còn sau 1980, nó được thể hiện dưới nhiều sắc thái cụ thể, với những mức độ khác nhau. Đặc biệt vào thời kỳ đầu những năm 80, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có xu hướng đi vào triết lý, xu hướng này chi phối giọng điệu của truyện khá rõ [30].Từ góc độ nghệ thuật truyện ngắn, Trịnh Thu Tuyết đã nhận định “ Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 có sự thay đổi rõ nét trong giọng điệu trần thuật, tính chất độc thoại tôn kính của sử thi đã được thay bằng tính chất bình đẳng, đa thanh hết sức mới mẻ.”[58,47]. Tác giả đã phân tích tính chất này trong sáng tác của nhà văn qua hai thời kỳ trước và sau năm 1975. Sau này, Trịnh Thu Tuyết đã tổng hợp đầy đủ hơn quá trình vận động và đổi mới trong giọng điệu trần thuật của Nguyễn Minh Châu Từ giọng điệu trần thuật tôn kính đậm chất sử thi, đến giọng điệu trần thuật suồng xã đậm chất đời thường; từ tính đơn giọng độc thoại đến tính chất phức điệu, đa thanh [59]. Ngoài điểm nhìn, giọng điệu trần thuật, Tôn Phương Lan, Trịnh Thu Tuyết còn đi vào phân tích ngôn ngữ, nhịp điệu trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Phương Lan giới hạn việc xem xét giới hạn ngôn ngữ trong phạm vi hẹp cách sử dụng ngôn từ của ông trong việc miêu tả, trong khả năng đưa ngôn ngữ văn chương gần gũi với ngôn ngữ của đời sống tạo nên tính biểu cảm, biểu trưng nhằm nâng cấp nghệ thuật cho ngôn ngữ trong tác phẩm của mình. Tôn Phương Lan cho rằng ngôn ngữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu là thứ ngôn ngữ “ được tinh lọc “[30]. Còn Trịnh Thu Tuyết chỉ ra và phân tích nhịp điệu trần thuật phù hợp với mỗi loại thể tài, nhân vật của Nguyễn Minh Châu, khẳng định hiệu quả nghệ thuật của nó là 8 “tác động vào thế giới nội tâm của người đọc, buộc người đọc không chỉ “ chứng kiến “ câu chuyện sảy ra mà phải “can thiệp” bằng cách tìm hiểu suy ngẫm những vấn đề đặt ra trong tác phẩm…để cùng tác giả khám phá những bề sâu bí ẩn của cuộc sống, con người”[58,46]. Nhìn chung các bài viết và công trình nghiên cứu kể trên đã xem xét nhiều phương diện nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ở nhiều góc độ, bình diện khác nhau, và dù là phác thảo khái quát hay phân tích cụ thể ít nhiều đều đề cập đến những khía cạnh, những yếu tố hoặc phương diện nào đó của nghệ thuật truyện ngắn. Tuy nhiên, xem xét vấn đề này một cách toàn diện, trực tiếp, hệ thống theo quan điểm nghệ thuật là toàn bộ tổ chức nghệ thuật của tác phẩm thì thật sự chưa có một chuyên luận nào đi sâu nghiên cứu nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu. Ở luận văn này, tôi cố gắng khảo sát nhằm tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Minh Châu ở góc độ thi pháp, từ đó góp phần làm rõ tư tưởng nghệ thuật cũng như tài năng độc đáo của của nhà văn mở đường “tinh anh và tài năng” này. Và thật sự, những bài viết và các công trình nghiên cứu kể trên đã là những gợi ý, tham khảo quý báu cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 nhìn từ góc độ thi pháp để thấy được những đổi mới, nét đặc sắc trong quan niệm nghệ thuật về con người - nơi thể hiện tập trung tư tưởng nhân bản sâu sắc của Nguyễn Minh Châu, cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả trong các truyện cận truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu từ góc độ thi pháp cho thấy sự cách tân nghệ thuật mang tính chất mở đường của ông - mở ra những khả năng và hướng đi mới cho thể loại truyện ngắn trong nền văn xuôi đương đại. Nhìn chung, mục đích chính của luận văn là muốn khám phá những vẻ đẹp đặc sắc trong phong cách nghệ thuật, những giá trị đích thực của truyện 9 ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 và những đóng góp của tác giả cho sự đổi mới của nền văn xuôi Việt Nam. 4. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là các yếu tố thi pháp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau năm 1975 thể hiện qua các phương diện nghệ thuật tổ chức hình tượng không gian - thời gian, nhân vật; tổ chức cốt truyện, trần thuật. Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu đặc biệt là các tác phẩm sau năm 1975, vì đây là những sáng tác có giá trị nghệ thuật cao, thể hiện rõ sự trăn trở tìm tòi đổi mới, sự " Dũng cảm điềm đạm " của một cây bút tài hoa, giàu lương tâm và trách nhiệm, rất đỗi nhân hậu và nặng lòng với con người, cuộc sống. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng linh hoạt và kết hợp các phương pháp sau Phương pháp thống kê, phân tích tác phẩm văn học dựa vào những đặc trưng thể loại. Truyện ngắn, loại tự sự. Phương pháp hệ thống luận văn khảo sát, phân tích các hiện tượng văn học như những bộ phận của một cấu trúc, những yếu tố của một hệ thống. Sử dụng các khái niệm công cụ của thi pháp học khi tiếp cận tác phẩm với góc độ nghiên cứu theo hướng thi pháp. Sử dụng phương pháp so sánh khi xem xét sự vận động của quá trình văn học, sự đổi mới trong sáng tác của tác giả thông qua những đặc điểm của truyện ngắn sau 1975. Sử dụng kết hợp linh hoạt một cách khoa học các phương pháp khác. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung được trình bày trong ba chương Chương I. Quan niệm nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu 10 Chương II. Nghệ thuật kết cấu và xây dựng tình huống Chương III. Nghệ thuật tổ chức không gian - thời gian và lựa chọn giọng điệu trần thuật 11 Chương I QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU Minh Châu - người mở đường tinh anh cho một giai đoạn văn học mới Minh Châu - cây bút của mọi miền hậu phương - tiền tuyến Những người yêu mến văn học thường dành cho nhà văn Nguyễn Minh Châu một tên gọi vừa giản dị vừa gần gũi dễ thương nhà văn chiến sĩ. Một người chiến sĩ luôn hào mình vào mọi hoàn cảnh của đất nước và chọn cho mình một lẽ sống cao đẹp. Chính lí tưởng cao đẹp là điều mà cây bút dũng cảm của Nguyễn Minh Châu luôn hướng tới và thể hiện rõ trên từng trang viết. Cả cuộc đời của mình Nguyễn Minh Châu gắn bó với cách mạng và quần chúng nhân dân, vì vậy hơn ai hết, ông thiếu rõ cuộc sống của nhân dân với những tâm tư, tình cảm, ngay cả những biến động tinh vi và nhỏ nhất trong tâm hồn họ cũng được ông thấu hiểu, ông hiểu rõ cuộc sống của những người lính, của chiến tranh và cách mạng và đây cũng chính là mảnh đất nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn ông. Sinh ra ở một vùng quê nghèo của miền trung gian khổ làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Cuộc đời ông, ngay cả khi ông đã đi khắp mọi miền đất nước luôn vẫn chịu những ám ảnh bởi cái dữ dội, cái nghèo khó, hoang sơ của đất mẹ. Nhiều tác phẩm của ông đã thực sự gây xúc động với những trang viết nặng ân tình trong sự gắn bó máu thịt và am hiểu sâu sắc cho con người và quê hương. Cuộc đời của Nguyễn Minh Châu luôn gắn liền với nhiều sự kiện của cách mạng dân tộc và ở đâu, dù trong thời gian nào đi nữa ấn tượng lớn nhất về ông trong lòng người đọc chính là hình ảnh của một anh bộ đội cầm bút. Đó là những trang viết khi ông khoác trên mình chiếc ba lô, tham gia các cuộc chiến. Hay những tác phẩm là kết quả của những ngày đi thực tế, lăn lộn ở chiến trường của nhà văn trong những năm trước 1975. Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự “ Tôi có kinh nghiệm mỗi chuyến đi thực tế của mình chỉ cần có được cái may mắn và vinh dự, cuộc đời trao cho mình lấy một hai con 12 người như thế , họ đã sáng tác cho mình một nửa, làm hộ cái công việc nặng nhọc, vất vả cho mình một nửa, họ như cái vạch nối giữa đời sống và nhà văn ” [ 28,96 ]. Năm 1975 sau khi đất nước vừa giải phóng, với cuốn sổ ghi chép trên tay, ông có mặt ở nhiều nơi. Đất nước tuy hoà bình nhưng phải oằn mình đối mặt với những khó khăn và phức tạp mới, phải giải quyết những hậu quả của chiến tranh để lại trong đó có sự gắn liền và thống nhất hai miền. Năm 1977 tiểu thuyết Miền cháy ra đời đó là kết quả của một hành trình gian khổ của người lính trong thời chiến. Năm 1983, tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành ra đời. Trong một cuộc thảo luận với báo văn nghệ Nguyễn Minh Châu đã từng tâm sự “ Sau chiến tranh, tôi đã đi thực tế nhiều lần, gặp nhiều đồng chí chỉ huy và chiến sĩ cũ chuẩn bị cho một cuốn tiểu thuyết mà bối cảnh là cuộc chiến đấu anh hùng ở thành cổ Quảng Trị năm 1972. Nhưng khi bắt tay vào làm thì song song với những vấn đề chiến tranh chống Mỹ, cái “đời sống của họ hôm nay ” nó bắt tôi phải quan tâm. Chắc các đồng chí cũng thấy những biểu hiện của lối sống, đạo đức và thậm chí là cả quan niệm sống của những con người xung quanh ta - nhất là thanh niên - khiến chúng ta không thể không quan tâm và lo lắng ”. Trong sự nghiệp văn học của mình, Nguyễn Minh Châu đã dành nhiều trang viết của mình cho giải đất Miền Trung gian khổ và khối lửa. Đó là những cuộc sống, con người cụ thể trong mối quan hệ với làng xóm, quê hương, với vận mệnh đất nước, với thiên nhiên gần gũi ... một cách sống động. Ta bắt gặp cuộc sống và con người hiện lên với một nét riêng rất Nguyễn Minh Châu trong Mảnh đất tình yêu hay Phiên chợ Giát - tác phẩm được hoàn thành trên giường bệnh khi nhà văn đang phải chiến đấu với căn bệnh ung thư quái ác ở viện 108 - tác phẩm được Nguyên Ngọc đánh giá là " một tuyệt tác của văn học hiện đại ". 13 Nguyễn Minh Châu đã làm việc, đã viết, đã cống hiến cho đến giây phút cuối cùng của đời mình. Một con người suốt đời lao động và sáng tạo nghệ thuật. Cho đến những ngày cuối đời mình trên giường bệnh, nhà văn vẫn kê từng trang giấy trên gối để viết. Ông đã dốc hết cả hơi thở cuối cùng của mình cho các trang văn. Khát vọng đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong yêu cầu đổi mới chung của văn học và thời đại Đổi mới là một yêu cầu tất yếu của Văn học Việt Nam sau năm 1975 Nếu như Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 tồn tại và phát triển trong hoàn cảnh chủ yếu là hai cuộc kháng chiến và gặp nhiều khó khăn trở ngại từ khâu sáng tác đến tiếp nhận, dẫn đến mang đậm tính chất của văn học thời chiến và nặng tính phiến diện trong việc phản ánh đời sống. Với việc quy các sự đa dạng, phức tạp của hiện thực đời sống vào những mô hình mang tính đơn giản, quy phạm, vào những hướng giải quyết có tính công thức, đề cao bút pháp hiện thực, tái hiện đời sống trong trạng thái thức giống như nó tồn tại, nhiều khi để mục đích phục vụ chính trị chi phối ít nhiều...đáp ứng được nhu cầu của lịch sử, tạo nên tác dụng to lớn trong việc thức tỉnh, động viên tuyên truyền thêm sức mạnh và niềm tin cho nhân dân...thì văn học thời kỳ sau năm 1975 lại có những đổi mới mang tính tất yếu. Trong những điều kiện mới của lịch sử - xã hội đất nước thống nhất, cuộc kháng chiến thắng lợi mở ra một thời kỳ mới, thời kì của độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội...Văn học cũng đã có những đổi mới thực sự. Gắn với vận mệnh của đất nước một cách chặt chẽ, văn học dần chuyển sang một thời kì mới với những vận động và quy luật khác trước. Ngay sau năm 1975, cả nước đón nhận tinh thần hào hứng phấn khởi của niềm vui chiến thắng nhưng đời sống còn biết bao khó khăn, gian khổ, thử thách những di hoạ của chiến tranh, đạo đức nhân cách của con người, và hàng loạt các vấn đề khác... Văn học với quan niệm là một hình thái của ý thức xã hội, đã nhanh chóng chuyển mình để phản ánh những gì đang diễn ra 14 vô cùng mạnh mẽ của cuộc sống. Tình hình xã hội đã đặt ra những yêu cầu mới trong đó có văn hoá nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Xong ngay lập tức văn học chưa bắt kịp được những yêu cầu đó một cách thoã mãn. Năm năm sau, năm 1980 đất nước chúng ta rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, và chính nó ảnh hưởng lớn đến mọi lĩnh vực của đời sống, văn hoá xã hội, trong đó có văn học. Một thời kì đầy biến động đã đẩy không ít văn nghệ sĩ rơi vào sự chao đảo, không giữ vững lập trường, bối rối trên con đường lựa chọn cho mình một phương hướng sáng tác đúng đắn. Nguyên Ngọc đã từng nhận xét đây chính là một " khoảng chân không trong văn học ". Vượt qua khó khăn của cuộc khủng hoảng, từ năm 1986 nước ta thực sự bước vào công cuộc đổi mới toàn diện. Đại hội Đảng VI với những quan điểm mới về văn hoá xã hội và nhất là văn học nghệ thuật đã là nguồn động viên khích lệ và tạo nên sự bứt phá mạnh mẽ trong văn học. Xuất phát từ đổi mới mạnh mẽ của văn hoá xã hội, văn học cũng không ngoại lệ, các sáng tác văn học đã kịp thay đổi để bắt kịp với hiện thực đời sống và nhu cầu của người đọc. Cuộc sống khác xưa vì thế con người không chỉ quan tâm đến sự kiện lớn của đất nước, ôn lại lịch sử mà họ quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống thường nhật, đến mỗi cá nhân và từng số phận con người. Họ chú ý nhiều hơn đến cuộc sống riêng tư. Văn học lúc này thực sự phải có một sức khái quát lớn, hiện thực cuộc sống phải được khai thác ở cả bề rộng và chiều sâu để đáp ứng nhu cầu con người. Nhu cầu về thẫm mĩ cũng thay đổi đáng kể và đi vào thực tế hơn. Hàng loạt các nhà văn đã tự đổi mới mình như Vũ Tú Nam, Chu Văn, Nguyễn Khải, Bùi Hiển, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Chu Lai, Nguyễn Huy Thiệp ... và Nguyễn Minh Châu cũng không là nhà văn ngoài lệ. Các tác phẩm trong thời kì này đã mở rộng và đào sâu sự khám phá hiện thực con người trong tính đa dạng, phức tạp và luôn biến động trong xu thế dân chủ hoá và thức tỉnh ý thức cá nhân, tinh thần nhân bản. Chính văn học đã đổi mới ngay từ nhận thức, trong phương thức 15
Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng , sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. 125 trang Chia sẻ lylyngoc Lượt xem 4984 Lượt tải 6 Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975-1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trênng cảnh ngộ, những bi kịch riêng thì đã hình thành rõ nét. Đó là số phận của người đàn bà làng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà ấy đã từng là con một nhà khá giả, nhưng vì xấu nên không có ai lấy. Sau đó chị có mang với một anh con trai nhà hàng chài giữa phá và bắt đầu cuộc đời lênh đênh trên sông nước. Cuộc sống dưới thuyền không xuôn xẻ gì lại thêm một lũ con nheo nhóc khiến anh chồng từ một anh con trai cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập vợ con trở thành một kẻ vũ phu. Bi kịch của đàn bà ở chỗ cứ ba ngày bị chồng đánh một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng vậy mà chị ta một mực khăng khăng xin quý toà bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó[11/342]. Tại sao một người bị chồng đánh một cách tàn nhẫn lại không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy? Vì sao chị ta thà hàng ngày chịu đòn của chồng chứ nhất định không li dị hắn? Thì ra, ngã chồng ấy là chỗ dựa quan trọng trong cuộc đời của người đàn bà làng chài, nhất là những khi biển động. Hơn thế chị còn phải nuôi những đứa con, chị đâu chỉ sống cho riêng mình, chị còn phải sống vì chúng nữa. Mặt khác cuộc sống trên thuyền cũng có lúc bình yên, vợ chồng con cái sống vui vẻ, thuận hoà. Dường như trong hoàn cảnh này, cách hành xử của người đàn bà này là không thể khác. Giải pháp bỏ chồng mà ông chánh án đưa ra cho trường hợp của chị là không khả thi. Bởi hơn ai hết người đàn bà ấy hiểu rằng chị đau đớn về thân thể nhưng không thể oán giận chồng. Số phận của anh ta cũng nghiệt ngã chẳng kém gì chị. Anh ta đáng bị lên án bởi sự vũ phu và bởi tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thoả mãn những bực bội trong lòng. Nhưng anh ta cũng đáng nhận được sự cảm thông bởi gánh nặng gia đình. Xét đến cùng anh ta chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. ở đây Nguyễn Minh Châu nhìn nhận số phận của con người trong cuộc sống không đơn giản mà đa diện, nhiều chiều. Bởi thế người nghệ sĩ bao giờ cũng nhìn thấy đằng sau cái màu hồng của ánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 sương mai trong bức ảnh còn là hình ảnh người đàn bà làng chài bước ra khỏi tranh. Chị là hiện thân của những lam lũ khốn khó đời thường nhưng cũng tiềm ẩn trong đó những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống. Số phận của chú bé Kiểm Kiểm - chú bé- con người của Ma Văn Kháng lại khiến người đọc không khỏi day dứt. Bố mẹ bỏ nhau, Kiểm ở với bố, mẹ kế và hai đứa em cùng cha khác mẹ. Trên thân thể em thường hằn lên những dấu vết của những trận đòn và sự hành hạ từ bà mẹ kế. Bà dì vốn cưng chiều con mình, để thoả mãn tình thương ấy bà phải hành hạ, trút cái vất vả khổ cực lên đầu em. Thậm chí cả hai đứa trẻ cũng sớm bị ảnh hưởng cái thói cay nghiệt, cái đặc quyền được đày đoạ con chồng nên đành hanh, nhiều khi quái ác đổ tội lên thằng anh để nó lại phải hứng chịu đòn oan. Một đứa trẻ không may rơi vào cảnh ngộ éo le này, rất dễ trở nên cằn cỗi, thui chột hết cái mầm nhân bản, hết khả năng yêu thương, thậm chí là lạnh lùng, nhẫn tâm với đồng loại. Nhưng Kiểm không chai lì, không tàn nhẫn. Bị vùi dập và dồn vào cảnh thiếu thốn cả vật chất lẫn tình cảm thì em vãn còn giữ được một khoảng cách, chưa đồng hoá với cái xấu. Em yêu thương và chăm sóc chu đáo cho hai đứa em cùng cha khác mẹ với tư cách là một người anh. Em sẵn sàng giúp đỡ và chia sẻ với những người nghèo khó. Khi người mẹ kế lâm bệnh, em đã tự nguyện trở về với một tình yêu vừa non tơ vừa quảng đại và quả cảm. Bởi em nghĩ suốt đời làm người khác khổ thì mình có sung sướng gì đâu. Kiểm là hệ quả của số phận rắc rối giao tiếp qua nhau, là hệ quả những va đập dưới áp lực của những quan niệm đạo đức và dục vọng khác nhau. Sự mưu cầu lợi ích vị kỷ, sức thôi thúc của dạ dầy và trái tim, lầm lỡ cả những tái tạo hồi sinh đã đảo lộn cơ tầng đời sống… làm nảy sinh những đứa trẻ bơ vơ, mất nơi nương tựa và bẽ bàng[31/84]. Nhân vật Dì Út trong truyện ngắn cùng tên của Thanh Quế cũng là một số phận mang đầy tính bi kịch. Đó là người phụ nữ phải chịu cả nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần. Sau khi tiễn chồng đi tập kết ở Miền Bắc, người phụ nữ này thường xuyên bị bọn Mỹ nguỵ bắt đi tù, đánh đạp tra khảo luôn. Đau đớn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 hơn cả là đứa con gái duy nhất cũng chết vì bệnh trong lúc chị đang ở tù. Sau ngày miền Nam giải phóng, chị vẫn nuôi mẹ chồng và chờ chồng nhưng chồng chị thì không một lần trở lại. Hoá ra anh ta giờ đã là một quan chức, lại sắp đi làm tuỳ viên kinh tế ở nước ngoài. Để leo lên được địa vị đó, anh ta sẵn sàng bịa ra một cái thư giả của một người đã chết vu oan, bêu xấu vợ để lừa tổ chức. Khi vợ biết chuyện, anh ta một mặt đổ thừa cho hoàn cảnh, mặt khác quỳ xuống van vỉ chị bỏ qua. Những người thân muốn chị vạch mặt kẻ bội bạc dối trá kia nhưng chị giữ im lặng. Nếu làm như thế liệu vết thương lòng của chị có thể nguôi ngoai hay chị sẽ chỉ nhận được nhiều ánh mắt cảm thương hơn của người khác? Sự im lặng ấy là biểu hiện cuả lòng bao dung hay sự chấp nhận thực tại phũ phàng? Số phận của con người đã đi qua chiến tranh không chỉ có vầng hào quang mà còn có cả những đau thương mất mát. Khi viết về cái đa đoan của con người trong cuộc sống, truyện ngắn sau 1975 cũng xuất hiện kiểu nhân vật cô đơn. Trong những năm chiến tranh không có con người cô đơn mà chỉ có con người tập thể, con người quần chúng. Xung quanh họ là bạn bè, đồng chí, dân tộc… con người không có điều kiện để soi ngắm tâm hồn mình. Sau 1975, với quan niệm con người cá thể, với sự thức tỉnh ý thức cá nhân thì kiểu nhân vật cô đơn không phải là hiếm. Hơn nữa ở giai đoạn giao thời trong bề bộn cuộc sống thì thật - giả, trắng - đen, tốt -xấu không phải lúc nào cũng minh bạch như hồi chiến tranh. Con người có lúc hoang mang trước nhiều lựa chọn. Vì thế con người cô đơn trở thành một điểm xoáy thu hút nhiều tác giả truyện ngắn. Bằng nhiều cách, mỗi nhà văn đã đi vào khám phá các phương diện khác của sự cô đơn. Nguyễn Minh Châu đi vào nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh với một khoảng trống trong tâm hồn không gì bù đắp nổi Quỳ- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Dương Thu Hương lại xây dựng một kiểu nhân vật cô đơn đi tìm kiếm hạnh phúc, thứ hạnh phúc không thể với được trong tầm tay Ngân- Những bông bần li. Nhân vật cô đơn trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng thì tìm cách thì chạy trốn quá khứ ông Thiềng- Ngày đẹp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 trời. Còn Nghĩa Căn nhà ở phố- Nam Ninh lại cô đơn lạc lõng ngay chính gia đình của mình. Đến nỗi anh phải tạo ra một kịch bản giả viết thư cho chính mình để tìm một cái cớ hợp lý cho việc rời khỏi gia đình. Nhiều nhân vật cô đơn trong truyện ngắn sau 1975 là những con người vừa bước ra khỏi chiến tranh. Họ không dễ dàng hoà nhập với những thay đổi trong cuộc sống hoà bình. Tuy nhiên ngày càng xuất hiện những nhân vật cô đơn về trạng thái tâm hồn. Đó là sản phẩm của những va đập trong cuộc sống đời thường, trong những quan niệm đạo đức nhân sinh trong cách ứng xử như nhân vật Đính trong Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân. Anh là một con người có tài năng và trách nhiệm cao trong công việc. Anh luôn tìm ra một phương án tối ưu để sửa chữa cho những dự án sai lầm. Đó là một công việc rất hữu ích nhưng không phải lúc nào cũng được mọi người ủng hộ. Người cho rằng anh đang chống lại tập thể, người lại tưởng anh đang tranh chấp quyền lực, đến người anh yêu cũng không dám ra mặt ủng hộ anh. Vì thế, cuộc sống của anh luôn vấp phải rất nhiều những hiểu lầm, những lời chỉ trích gay gắt và suốt cuộc đời anh đã luôn phải đấu tranh cho chân lý trong cô đơn. Như vậy, cô đơn thực chất là chuyện của những số phận, những con người cá nhân nhưng nó không phải là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Đi vào từng mảnh đời cô độc là những vấn đề mang tính xã hội lớn lao. Thể hiện con người cô đơn chính là biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong truyện ngắn sau 1975 để góp phần giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những tình cảm sâu kín thuộc về vấn đề con người. ở mỗi truyện ngắn sau chiến tranh là từng cá thể, từng mảnh đời thầm lặng hay sôi động. Chân dung và số phận con người đã được thể hiện khá sinh động sâu sắc, đa chiều. Đi sâu vào tâm hồn con người, nhà văn thấy được ở mỗi số phận ấy từng niềm vui, nỗi buồn hay sự đau khổ, khao khát, đam mê. Những đổi mới bước đầu trong nghệ thuật xây dựng nhân vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Có ý kiến cho rằng truyện ngắn sống bằng nhân vật và nó bộc lộ đầy đủ những đặc tính của thể loại, mở ra cho văn học những đề tài, những vấn đề mới của đời sống bằng những hình tượng văn học. Nếu truyện ngắn 1945- 1975 thể hiện quan niệm con người tập thể, con người quần chúng nên nhân vật thường được thể hiện trong các sự kiện, biến cố lịch sử thì truyện ngắn sau 1975, trở về con người cá nhân. Nhân vật thường được thể hiện qua các mối quan hệ đời thường, qua thế giới nội tâm, qua miền ý thức, vô thức đầy bí ẩn, phức tạp. Với xu hướng khám phá, thể hiện con người mới mẻ như vậy, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 đã hình thành một số kiểu nhân vật mới. Cách biểu hiện nhân vật cũng đang có những chuyển biến mới. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật Văn học Việt Nam 30 năm chiến tranh xây dựng con người quần chúng, con người hiện thân cho ý chí cách mạng. Đó là những con người cầm súng và quyết thắng lấn át con người bình thường, con người tinh thần, ý chí nổi lên trên con người vật chất, con người vì nghĩa lớn lấn át con người riêng tư[81/428].Việc đi sâu khai thác tâm lí con người chưa được coi là một thao tác bình thường trong văn học giai đoạn này. Tuy nhiên, khi văn học trở về với con người cá nhân, con người trong cuộc sống đời thường thì việc miêu tả tâm lí con người lại như một lợi thế của văn xuôi nói chung. Bởi lẽ khi các tác giả tập trung sự chú ý vào quá trình hình thành cá tính, tính cách của con người tất yếu sẽ dẫn đến sự tăng cường yếu tố phân tích tâm lí và khắc họa cá tính nhân vật. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 có thể nhận thấy, các nhà văn đã khá nhạy bén trong việc miêu tả tâm lí, cá tính, tư tưởng của con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là sự miêu tả những xung đột nội tâm, những rung động trong cảm xúc, những biến đổi trong tâm lí nhân vật chứ chưa hoàn toàn nắm bắt trọn vẹn một quá trình tâm lí, tư tưởng để xây dựng những hình tượng nghệ thuật có sức sống lâu bền. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Trong khi miêu tả tâm lí nhân vật, các tác giả thường để cho nhân vật tự ý thức về bản thân mình trong những mối quan hệ với xung quanh, tự mình bộc lộ với chính mình những suy nghĩ và cảm xúc chân thực nhất. ở đó thủ pháp độc thoại nội tâm được sử dụng một cách hữu hiệu để nhân vật tự bộc lộ những suy tư, trăn trở của bản thân. Những tiếng nói từ bên trong, những lời tự vấn của người họa sĩ trong Bức tranh Nguyễn Minh Châu chính là động lực thúc đẩy sự phát triển tính cách của anh ta. Lúc đầu, khi phát hiện ra lỗi lầm do sự thất hứa của mình, anh ta đã day dứt Tại sao ngày ấy tôi đã không dưa tấm ảnh đén cho gia đình anh? Tại sao tôi không giữ lời hứa? Tôi đã hứa với anh và cả tôi nữa, đinh ninh và hùng hồn lắm, và cũng thực tâm lắm chứ?[11/126]. Rồi chính anh lại tự biện minh cho việc làm của mình Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là anh thợ vẽ truyền thần, công việc của người nghệ sĩ là phải phục vụ cả số đông, chứ không phải chỉ phục vụ một người[11/127]. Những lời tư biện này chứng tỏ anh ta chưa thấy được hết cái nguy hiểm của thói quen lấy lợi ích cộng đồng làm bình phong che chắn cho hành vi thất hứa của mình. Vì thế, xung đột nội tâm của nhân vật chưa dừng lại ở đó mà được đẩy cao hơn trong cuộc đối thoại tưởng tượng với người thợ cắt tóc. Đó là một thứ trảm hình trong lòng nhân vật để anh ta nhận ra cái bộ mặt thật của mình vừa được lột ra khỏi cái mặt nạ hàng ngày. Truyện ngắn này lôi cuốn người đọc bởi cách xoáy sâu vào tâm lí nhân vật và nghệ thuật tạo căng thẳng dần, siết chặt dần từ cảm giác ân hận bị dìm xuống đến lòng hối hận bùng lên, rồi một niềm ăn năn không dứt mãi không thôi trong lòng nhân vật. ở đây, tác giả đã cố gắng đưa nhân vật đi đến tận cùng sự phân tích bên trong để nhìn rõ chính nó. ở Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu tỏ ra là cây bút có khả năng phân tích và thể hiện được những biến động tâm lí khá phức tạp của một tâm hồn không đơn giản như Quỳ. Nhà văn chọn cho câu chuyện của mình bằng dạng thức tự kể của nhân vật chính. Đó là những lời kể chân thành như lời tự thú của Quỳ. Rồi cứ thế cả thiên truyện dần dần hiện Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 ra cùng vói việc khám phá phần cốt lõi khó khăn phức tạp đầy biến động nhất của nội tâm, đó là các cuộc tình của Quỳ. Đúng là để xây dựng nhân vật này, Nguyễn Minh Châu đẫ phải huy động một khối lượng đậm đặc những chi tiết, những chi tiết buộc phải có nhiều kinh lịch trên đường viết văn, một quan sát tinh tế lắm, một vốn hiểu biết về nhân vật sâu sắc mói có thể có được[81/311]. Mỗi nhà văn trong từng truyện ngắn của mình có những khám phá riêng về đời sống tâm hồn của nhân vật. Nếu Vũ Tú Nam trong Đi đón cơn mưa miêu tả thành công những xao động trong tâm hồn của một người thầy giáo khi biết được tình cảm của một người phụ nữ có số phận bất hạnh dành cho mình thì Thùy Linh lại đọc ra được một nghị lực ghê gớm, một sự thèm khát tình yêu của bố mẹ trong đôi mắt vốn lạnh lùng của cậu bé Nguyên Mặt trời bé con của tôi. Phạm Thị Minh Thư miêu tả những trạng thái tâm hồn đầy tinh tế, thơ mộng và tràn đầy niềm tin của nhân vật trong một đêm tản cư mà có lẽ chẳng sự tàn bạo, khốc liệt nào đè bẹp nổi Có một đêm như thế. Dù rằng mỗi tác giả truyện ngắn mới chỉ đi vào miêu tả tâm lí nhân vật trong từng thời khắc nhất định chứ chưa phải là toàn bộ quá trình tâm lí thì điều này cũng đã góp phần làm cho nhân vật được soi chiếu ở nhiều bình diện. Mặt khác khi đi vào miêu tả tâm lí nhân vật, các cây bút truyện ngắn còn sử dụng yếu tố tâm linh như một biện pháp để khám phá sâu hơn nội tâm nhân vật. Với các hình thức giấc mơ, điềm báo, đối thoại giữa những mảng tâm linh… nhờ đó chất người được bộ lộ đa chiều, đa diện hơn. Dưới hình thức những cơn mộng du Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Nguyễn Minh Châu đã khắc họa sâu sắc những tình cảm của một người đàn bà suốt đời lang thang đi tìm chân trời của những giá trị tuyệt đối. Cả thiên truyện dường như được bao bọc trong một bầu không khí phảng phất màu sắc mộng mị, huyền thoại. Nhiều lần trên con tàu mộng du của Quỳ yếu tố tâm linh đã xuất hiện góp phần soi tỏ nội tâm nhân vật. Chẳng hạn khi gặp pho tượng Phật ngàn tay ngàn mắt ở một ngôi chùa trong một lần đi công Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 tác, Quỳ nghĩ ngay đến đôi bàn tay của người trung đoàn trưởng đã hi sinh. Quỳ nâng vạt áo quân phục dính đầy dầu mỡ lên lau sạch những lớp bụi bám trên một bàn tay. Nhưng khi vừa chạm tới, vạt áo của chị đã ướt đẫm mồ hôi, y như mồ hôi người cứ dấp dính toát ra từ chất gỗ. Và cảm giác của nhân vật lúc này hoàn toàn được soi chiếu từ ánh sáng của tâm linh Tôi sợ hãi lùi ra xa, ngước nhìn khuôn mặt ấy tự nhiên tôi bỗng hoảng hốt khi nhận ra đang phảng phất trên cặp môi bằng gỗ, vẫn cái nụ cười ấy, cái nụ cười bí ẩn mà tôi đã trông thấy rất nhiều lần hiện lên trên cặp môi anh ấy trước khi chết[11/164]. Dưới hình thức của một giấc mơ, truyện ngắn Mai Thanh Quế lại bộc lộ được những diễn biến tâm trạng nhân vật người cha sau nhiều ngày đi tìm mộ con không đem lại kết quả gì. Một buổi sáng khi ông vừa định trở dậy thì chẳng hiểu vì lí do bí ẩn nào một cơn buồn ngủ đến nhức cả mắt kéo ông nằm xuống. Ngay lập tức một cơn mơ lạ đến với ông. Trong giấc mơ, ông đã gặp con gái mình trong một rừng dương. Kì lạ thay giấc mơ ấy lại trùng với manh mối để tìm ra mộ con ông. Ông thấy cái việc tìm mộ con có điều gì thật bí ẩn, nó giông giống như trong giấc mơ. Phải chăng vong hồn cô con gái đã mách bảo cho người cha? Hay đó chính là cái ánh sáng được phát ra từ thế giới bên trong như một sự mác bảo của tâm linh? Bởi lẽ vốn từ xưa ông không hề mê tín. Nhưng hôm nay, tự nhiên ông thấy trong lòng ông rao rực, tai ông nóng bừng và chung quanh nhà ông lâu nay im ắng bỗng có một bầy chim lạ về chao hót[67/273]. Diễn tả cái khoảnh khắc biến động trong tâm hồn người cha từ đời sống tâm linh như thế cũng là một cách đi vào chiều sâu tâm hồn nhân vật. ở Những bông bần li Dương Thu Hương thì sự kết hợp của hai yếu tố thực và ảo cũng góp phần soi sáng chiều sâu tâm thức nhân vật. Nếu cuộc sống hiện tại với người chồng hờ hững vô tâm chỉ đem lại cho Ngân những bực bội, đau khổ thì hình ảnh và sự hi sinh của Nghiêm người yêu trong quá khứ của Ngân lại đem đến cho chị những sự nâng đỡ. Dù rằng những tình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 cảm ấy chỉ như một tiếng sấm vọng về từ cuối trời xa khi cơn giông đã qua đi lâu lắm thì nó vẫn làm cho người đàn bà ba mươi lăm tuổi ấy lần đầu tiên biết nghĩ đến đời mình một cách thấu đáo. Cũng là lần đầu tiên chị tìm thấy nguồn sáng riêng biệt cho đường đi của mình[67/157]. Sự soi rọi từ bóng hình của người chiến sĩ đã hi sinh có tác động thăng bằng và thanh lọc tâm hồn Ngân. Nó như một luồng ánh sáng thoạt đầu còn mỏng manh như sợi khói trong cõi vô thức xa xôi nhưng dần dần nó rõ nét hơn, lớn hơn choán hết tâm trí chị. Như vậy, trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 phương diện đời sống tâm linh con người được khám phá ở một chiều sâu mà giai đoạn trước đó chưa đạt đến. Nó góp phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về con người và tạo ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện nhân vật. Nhìn chung, việc khám phá sâu vào lĩnh vực tâm linh, mở ra những miền phong phú, bí ẩn không cùng của con người chính là xuất phát từ một quan niệm không đơn giản, xuôi chiều về con người, từ ý muốn khám phá con người ở nhiều thang bậc giá trị, ở những tọa độ ứng xử khác nhau, ở nhiều chiều kích[21/288]. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong những chiều thời gian khác nhau Bên cạnh việc phân tích tâm lí, nhân vật còn được đặt trong dòng thời gian và lịch sử, trong các khả năng lựa chọn và thích ứng, trong những nghịch lí của tồn tại, trong sự khác biệt của những người hôm qua và những người hôm nay. Nguyễn Văn Long cho rằng giải pháp nghệ thuật mà một số truyện ngắn đã tìm đến là đặt nhân vật vào trong những chiều thời gian khác nhau, đan cài giữa hiện tại và quá khứ để làm nổi bật nghệ thuật này trong đời sống tinh thần và số phận mỗi con người khác nhau[39/218]. Việc sử dụng thời gian đồng hiện thường đi liền với những đối thoại bên trong của nhân vật như là những thủ pháp giúp nhà văn đi sâu hơn vào thế giới bên trong, vào những diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp của con người. Có thể kể đến những truyện ngắn đã thành công trong việc sử dụng giải pháp nghệ thuật này như Sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 trong thời gian hai chiều Vũ Tú Nam, Có một đêm như thế Phạm Thị Minh Thư, Gió từ miền cát Xuân Thiều, Người không đi cùng chuyến tàu Nguyễn Quang Thân… ở những truyện ngắn này việc đan xen giữa hiện tại và quá khứ thể hiện sự phân thân trong đời sống tinh thần của con người. Giữa những lo toan đời thường sau chiến tranh, con người vẫn dành một phần tâm tưởng cho quá khứ. Nhiều lần hiện tại mờ đi hoặc đi soi sáng nhờ quá khứ. ở Những bông bần li, quá khứ đã trở thành nỗi ám ảnh trong nhân vật Ngân. Quá khứ với một người yêu đã hi sinh nhưng đôi mắt nâu dài, khi cười như có nắng của anh vẫn luôn theo chị. Đặc biệt là những lời nói cuối cùng của anh trước khi ra đi trong cuộc chiến đấu lâu dài này, tụi mình hi sinh phải lí hơn, tụi mình già rồi. Các cậu còn trẻ các cậu phải ở lại để đánh giặc cho tới lúc chiến thắng [67/153]như một sự thức tỉnh tâm hồn chị, giúp chị một lựa chọn đúng đắn trong cuộc sống hiện tại Những bài học lịch sử…đó chính là luồng sáng lung linh nâng đỡ cuộc đời chị. Chị sẽ giáo dục các con chị, những học sinh nhỏ bé của chị, những thế hệ sau này biết rung động sâu xa trong đời sống chung, với những cội nguồn đem đến cuộc sống cho chúng[67/157]. Đúng như tên gọi của nó Sống trong thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam lại như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng chảy của thời cuộc. Tác giả đặt nhân vật ở thời điểm ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Chỉ mấy ngày trở lại quê hương nhưng ông An đã sống trong hai chiều thời gian của mấy chục năm. Thời gian đã cật vấn ông, nhào nặn ông, phán xét và thúc đẩy ông[67/866]. Nếu thời trẻ khi đi vào cách mạng lòng ông luôn phơi phới, tưởng như cái gì cũng đơn giản, dễ dàng thì khi cuộc sống trở về hoàn cảnh bình thường lại đặt ông trước bao mối quan hệ mới mẻ buộc phải lựa dòng đời, trước dòng thời gian, ông đã phải dừng lại để suy ngẫm chúng nó con cháu mình đi xuôi thời gian, các cụ ngược về dĩ vãng, còn mình thì đứng giữa ư? Hay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 theo hướng nào ?[67/850] Sự đồng hiện về thời gian ở truyện ngắn này gúp nhà văn đi sâu hơn vào những diễn biến tâm lí phức tạp của nhân vật. Cái quá khứ trong veo, thoảng hương hoa loa kèn và âm hưởng của giọng nói vừa giễu cợt vừa trìu mến lại như một luồng gió tươi mát ùa vào tâm hồn mệt mỏi Miên Có một đêm như thế- Phạm Thị Minh Thư. ở truyện ngắn này, cái ánh sáng rạng rỡ của ngày hôm qua vẫn tiếp tục chiếu rọi vào cuộc sống hàng ngày hôm nay như nâng bước cho con người trong cuộc sống hiện tại. Trong Khách ở quê ra Nguyễn Minh Châu thời gian hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau theo dòng chảy tâm trạng của nhân vật Khúng. Nhiều truyện ngắn khác lại có cuộc hành trình ngược về quá khứ như tìm đến một nguồn sức mạnh tinh thần để đi tiếp hành trình đến tương lai Tuổi thơ im lặng, Gió từ miền cát . Có thể nói, trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945-1975, vấn đề thời gian chưa có nhiều ý nghĩa trong đời sống nội tâm con người như giai đoạn sau 1975. Đây không phải là thời gian của những sự kiện lớn lao hay thời gian vĩnh hằng trong dòng chảy của nó mà là thời gian trong ý thức của cá nhân, ý thức về từng khoảnh khắc đang sống. Đó là thời gian của những tâm trạng, gắn với những biến động trong đời sống mỗi con người cá thế việc đặt nhân vật vào những chiều thời gian khác cũng là một cách để miêu tả sâu sắc hơn đời sống nội tâm của con người . thuật trần thuật Theo từ điển thuật ngữ văn học trần thuật là phương diện cơ bản của thể loại tự sự, là việc giới thiệu khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của chủ thể trần thuật. Nghệ thuật trần thuật là cả một hệ thống tổ chức phức tạp nhằm đưa hành động lời nói nhân vật vào đúng vị trí của nó để người đọc lĩnh hội theo ý định tác giả. Trong trần thuật có nhiều phương diện điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật…ở luận văn này chúng tôi chỉ khái quát những dấu hiệu đổi mới của nghệ thuật trần thuật trên các phương diện chính. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 Sự đa dạng về điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn văn bản là phương thức phát ngôn, trình bày, miêu tả phù hợp trong cách nhìn, cách cảm thụ thế giới của các tác giả. Khái niệm điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm mọi nhận thức, đánh giá, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là vị trí dùng để quan sát, cảm nhận, đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể và khách thể, cả phương diện vật lý, tâm lý văn hoá[78]. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 cho thấy, điểm nhìn trần thuật được tổ chức chủ yếu từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Trần thuật ở ngôi thứ nhất, là hình thức mới xuất hiện trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Đây cũng là hình thức nghệ thuật được truyện ngắn nói riêng và văn xuôi nói chung sử dụng chủ yếu ở hai dạng cụ thể Trần thuật từ ngôi thứ nhất với vai trò người dẫn truyện hoặc trao cho nhân vật chức năng trần thuật từ ngôi thứ nhất về hình thức nhân vật có thể xưng tôi nhưng không phải là tác giả. Trần thuật ở ngôi thứ nhất trong vai trò người dẫn truyện thực chất chủ thể trần thuật được nhân vật hoá để thực hiện vai trò dẫn truyện. Trước năm 1975, tuy chủ thể trần thuật cũng được nhân vật hoá nhưng thực chất vẫn là cái tôi hướng ngoại đại diện cho cộng đồng. Còn sau 1975, đó là cái tôi hướng nội, là sự trần thuật theo quan điểm cá nhân. Đó là nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu, nhân vật tôi Mặt trời bé con của tôi- Thùy Linh, nhân vật tôi Hạnh Nhơn - Nguyễn Thành Long...Với kiểu trần thuật này, người kể truyện thường xưng tôi đóng vai trò trung tâm, giữ quyền kể truyện từ đầu đến cuối chuyện. ở một số truyện hầu như tôi là nhân vật duy nhất, còn những nhân vật khác chỉ được miêu tả từ điểm nhìn của người kể truyện Hạnh Nhơn. Qua hình thức kể truyện này, người kể truyện - tác giả - đã thể hiện tư tưởng tình cảm của mình một cách tự nhiên. ở truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa trong khi kể lại cảnh người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người kể truyện đã bộc lộ ngay thái độ của mình Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi, chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới[11/336]. Còn ở truyện Hạnh Nhơn, trong tình huống nhận lầm cha của cô bé Hạnh Nhơn người kể chuỵện đã rất dễ dàng bộc lộ những băn khoăn suy nghĩ của mình Cuộc đời của em như thế nào mà em phó thác giọt máu đó của em cho anh? Tôi rất bối rối trong tình huống khó xử đó…Vậy thì tôi giải quyết như thế nào ý muốn của người đã khuất[8/309]. Như vậy, qua hình thức trần thuật này, thường là những nhân vật hướng nội, có đời sống nội tâm phong phú, có quá trình diễn biến tâm lí phức tạp. Người trần thuật cũng là người tham gia vào câu chuyện và nhiều khi in đậm dấu ấn của chính tác giả với những trạng thái tâm hồn, cảm xúc hoặc cuộc đời, số phận riêng không phẳng lặng. ở dạng thứ hai trong cách trần thuật từ ngôi thứ nhất thường là các nhân vật được tác giả trao cho chức năng trần thuật. Đó là Quỳ Người đà bà trên chuyến tàu tốc hành, là Miên Có một đêm như thế là Ngân Những bông bần li…Trao cho nhân vật nhiệm vụ trần thuật hoặc người kể truyện đứng đằng sau nhân vật, nhà văn không tham gia vào quá trình diễn biến câu chuyện mà để cho các nhân vật tự kể lại cuộc đời, số phận của mình. Cách trần thuật này giúp cho nhà văn có thể soi vào phần khuất lấp trong ý nghĩ của nhân vật vì người trần thuật vừa là nhân chứng vừa là nhân vật chính của câu chuyện. Với cách trần thuật từ ngôi thứ ba, chủ thể trần thuật là người biết hết mọi người, mọi việc và giữ vai trò duy nhất trong miêu tả, kể chuyện, dẫn chuyện. Trong truyện ngắn giai đoạn trước 1975, điểm nhìn trần thuật từ ngôi thứ ba thường tạo ra khoảng cách giữa người kể chuyện và đối tượng kể. Thời kỳ sau 1975, các nhà văn thường trần thuật từ ngôi thứ ba nhưng có sự hoà nhập song trùng chủ thể khiến cho khoảng cách giữa nhà văn và nhân vật được thu hẹp dần. Từ điểm nhìn bên ngoài để khẳng định cho một tư tưởng có sẵn, điểm nhìn trần thuật dịch chuyển vào bên trong ở lối trần thuật này, tác giả không chỉ kể mà còn đi sâu miêu tả tâm trạng bên trong nhân vật trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 những lời độc thoại, những hồi tưởng, nhận thức, suy tư, chiêm nghiệm. Những truyện ngắn về đề tài thế sự của Nguyễn Minh Châu thường được trần thuật từ điểm nhìn này Đứa ăn cắp, Mẹ con chị Hằng, Hương và Phai, Lũ trẻ ở dãy K… Trần thuật theo cách này, lúc đầu nhà văn trọn một điểm nhìn tương đối khách quan bên ngoài sau đó di chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật. ở đó cái nhìn như xuyên qua nội tâm nhân vật trong một tính chất hoà nhập đậm nét đến mức tạo cho người đọc có cảm giác tác giả đã hoá thân vào nhân vật của mình, nhìn thế giới theo con mắt của nhân vật thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của nhân vật. Truyện Sống mãi trong cây xanh của ông tiêu biểu cho cách trần thuật này. Lúc đầu, khi miêu tả công việc của bác Thông tác giả tỏ ra khách quan như người đứng ngoài chứng kiến vừa miêu tả, vừa kể lại. Nhưng khi kể đến việc chặt cây sấu, người kể chuyện như nhập hẳn vào nội tâm nhân vật, sống trong những tâm trạng đau đớn xót xa như sắp phải đứng để cho người ta cưa tay cưa chân mình. Sự hoà nhập, thậm chí hoá thân đó đã giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, những diễn biến tâm lí tinh vi của nhân vật trong mối quan hệ với thế giới đa dạng, đa chiều . Truyện ngắn giai đoạn chiến tranh thường có một giọng, một điểm nhìn trần thuật. Nhưng trong các truyện ngắn sau 1975, xu hướng chung là có sự phối hợp các điểm nhìn trần thuật. Có điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong, bên ngoài, điểm nhìn không gian thời gian, điểm nhìn đánh giá tư tưởng cảm xúc ...Tác giả để cho các điểm nhìn này đan cài vào nhau vì thế nhân vật được soi chiếu từ nhiều góc độ, được khắc hoạ toàn vẹn hơn về chân dung, tính cách, số phận để từ đó khái quát lên những vấn đề có tính triết lí. Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho việc phối hợp các điểm nhìn. Số phận đầy bi kịch của người đàn bà làng chài được Nguyễn Minh Châu soi chiếu từ nhiều điểm nhìn khác nhau của các nhân vật. Mỗi nhân vật một cách nhìn. Với cái nhìn của trẻ con vô tư, yêu ghét rạch ròi thì thái độ của thằng Phác là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 giận giữ nhảy xổ vào người bố để chống trả lại những trận đòn bảo vệ mẹ nó. Còn chị nó đã đủ lớn khôn hơn để ngăn giữ nó lại. Vị chánh án thì một mực đưa ra giải pháp li hôn và cho đó là cách giải quyết duy nhất để giải thoát cho người đàn bà kia khỏi sự vũ phu của người chồng. Nhà nhiếp ảnh thì vô cùng phẫn nộ trước cảnh tượng hết sức vô lí. Nhưng người đàn bà, nạn nhân của tấn bi kịch, lại khiến người khác giật mình lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải người là làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc[11/343]. Một người đàn bà với lũ trẻ đâu có sống dễ dàng gì giữa mênh mông sông nước nếu thiếu đi bàn tay chèo chống của người đàn ông. Người đàn bà ấy không sống cho mình mà sống vì những đứa con kia. Với sự đa dạng về điểm nhìn như thế, truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là sự phát hiện ra những vấn đề nhức nhối của đời sống con người, buộc người đọc phải trăn trở trong những câu hỏi không dễ tìm lời giải đáp . Như vậy sự đa dạng và sự chuyển dịch liên tục các điểm nhìn trần thuật đã tạo ra cho các tác giả nhiều cách thức khác nhau khi tiếp cận hiện thực và thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình. Đồng thời sự phong phú về điểm nhìn cũng là điều kiện quan trọng để hình thành giọng điệu . Sự đa thanh trong giọng điệu trần thuật Từ giọng điệu chủ âm là ngợi ca trong văn xuôi giai đoạn chiến tranh, văn xuôi sau năm 1975 có sự đa dạng, phong phú hơn trong giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, vì thế nhân vật thường bộc lộ những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm ngưỡng, suy nghĩ đấu tranh trong chính bản thân mình. Điều này được thể hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương… Trong văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng từ sau năm 1975, người đọc nhận thấy sự đan xen của nhiều giọng điệu. Ngay ở một tác giả một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 tác phẩm tính chất đa dạng cũng ngày càng bộc lộ rõ. Nguyễn Minh Châu là trường hợp tiêu biểu về sự đa dạng trong giọng điệu trần thuật. Có thể coi Bức tranh là truyện ngắn thể hiện những thay đổi sớm nhất và rõ nhất về giọng điệu trong các sáng tác sau chiến tranh của ông. ở truyện ngắn này, giọng điệu tác giả và giọng điệu của nhân vật nhiều lúc khó mà phân biệt. Sự hoà quyện giọng điệu ấy vang lên trong cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật qua đó ghi lại những diễn biến tâm trạng một cách chân thực. Cuộc đối thoại khi thì mang giọng điệu mỉa mai giễu cợt thói đạo đức giả của chính nhân vật A ha! Vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả…Có quyền lừa dối hả? Thôi, anh bước khỏi mắt tôi đi[11/127]; khi thì mang giọng tư biện Tôi là một nghệ sĩ chứ có phải đâu là một anh thợ vẽ truyền thần…Anh chỉ là một cá nhân, với cái chuyện riêng của anh, anh hãy chịu khó để cho tôi quên đi, để phục vụ cho cái đích lớn lao hơn[11/127]; khi lại đanh thép kết tội mình là đồ dối trá. Những giọng này vừa đan xen, vừa luân chuyển theo những biến đổi tâm trạng của nhân vật. Nhưng nổi bật và xuyên suốt trong tác phẩm vẫn là một giọng điệu thâm trầm của một tâm hồn đang diễn ra những biến cố dữ dội. Tính chất đa giọng điệu ấy tiếp tục được sử dụng triệt để hơn trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. ở thiên truyện này luôn vang lên nhiều tiếng nói khác nhau, nhiều cuộc đối thoại đan cài, xen kẽ vào nhau. Tiêu biểu là những đối thoại nội tâm của Quỳ trong những giằng xé trăn trở trong cơn mộng du để tìm đến trong chân lí của cuộc sống. Đó còn là cuộc đối thoại giữa nhân vật người dẫn chuyện với Quỳ, giữa Quỳ và anh ấy, rồi giữa Quỳ với vong linh những người lính đã từng yêu thương cô. Chính tính chất đa giọng điệu đã tạo ra sức gợi mở và tính tranh luận để kiếm tìm chân lí. Đó cũng chính là một trong những biểu hiện của xu hướng dân chủ hoá trong văn xuôi của Nguyễn Minh Châu đầu những năm 80. Khi đi vào cuộc sống của những con người đời thường, tuỳ theo từng kiểu người mà giọng điệu của nhà văn biến đổi linh hoạt cho phù hợp. ở Sắm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 vai, miêu tả sự lố bịch kệch cỡm trong hành động của nhà văn T, Nguyễn Minh Châu chủ yếu sử dụng giọng điệu hài hước. ở Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp là giọng nghiêm nghị, xót xa khi nói đến những sự vô tâm của con người trong cuộc sống. Còn ở Bức tranh và Dấu vết nghề nghiệp lại là giọng điệu trầm tĩnh, day dứt đầy triết lí. Với nhân vật Khúng trong Khách ở quê ra, nhà văn sử dụng giọng điệu suồng sã, đời thường . Sự thay đổi từ một giọng sang đa giọng trong truyện ngắn sau 75 có căn nguyên từ những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Cuộc sống trong chiến tranh ồn ào náo động nhưng có cái đơn giản của nó còn cuộc sống trong hoà bình lại chất chứa nhiều sóng ngầm gió xoáy Nguyễn Khải bên trong. Đứng trước những vấn đề xã hội nhân sinh mới mẻ đòi hỏi nhà văn phải có những cách tiếp cận mới, những cách giải quyết mới khác với thời chiến. Trở về với đời thường để dẫn người đọc thâm nhập vào cái bên trong đầy bí ẩn, chứa đựng cái bản ngã của mỗi người trong những mặt đối lập, phức hợp trong tính cách của nó, các tác giả hầu hết đã thay đổi giọng điệu trần thuật và có bước tiến mới trong tổ chức giọng điệu trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 PHẦN KẾT LUẬN 1. Nằm trong sự chuyển đổi nhiều mặt của xã hội sau khi chiến tranh kết thúc, nền văn học Việt Nam cũng có sự vận động, biến đổi để đáp ứng nhu cầu chung của con người thời đại. Truyện ngắn là thể loại đáp ứng nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Sự vận động và phát triển của truyện ngắn Việt Nam trong giai đoạn 1975 - 1985 là một hiện tượng mang tính tất yếu. Một mặt, do những thay đổi trong đời sống xã hội với phức tạp trong cuộc sống đời thường và sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thôi thúc quá trình đổi mới của thể loại. Truyện ngắn đã bứt phá những quy phạm thể loại, những hạn hẹp trong phạm vi phản ánh hiện thực để đáp ứng kịp thời và toàn vẹn những vấn đề của thực tại sau chiến tranh. Mặt khác, từ sau năm 1975 nhất là từ giữa những năm 80 trở đi với chủ trương dân chủ hóa văn học và sự mở rộng giao lưu với văn học các nước trong khu vực và trên thế giới đã dẫn đến những biến đổi quan trọng, sâu sắc nền văn học Việt Nam, trong đó có truyện ngắn. Sự cách tân thể loại này bắt đầu từ quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người đến phương thức thể hiện, từ chức năng của văn học đến tư cách người nghệ sĩ, từ phương diện tư tưởng đến phương diện thi pháp. Tuy nhiên, những sự thay đổi đó mới chỉ là những dấu hiệu tiềm ẩn, chưa định hình rõ ràng, với những thể nghiệm, những bước dò tìm để chuẩn bị cho quá trình đổi mới sẽ diễn ra mạnh mẽ ở giai đoạn sau. Trong hướng đi mới này, nhiều truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn… như là khúc dạo đầu cho truyện ngắn nói riêng và cũng là cho cả một giai đoạn văn học mới. Tiếp sau họ xuất hiện một lớp nhà văn trẻ như Lê Minh Khuê, Phạm Thị Minh Thư, Hồ Anh Thái… Họ sẽ là lực lượng chính đưa văn xuôi Việt Nam đổi mới sau 1986 chính thức lên đường. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 Tất cả những dấu hiệu đổi mới trong các truyện ngắn mà luận văn khảo sát có thể xem như là những mũi khoan thử nghiệm của một hướng tìm tòi, đổi mới ban đầu của thể loại nằm trong quy luật vận động, phát triển không ngừng của nền văn học Việt Nam hiện đại trong sự giao lưu và tiếp xúc với văn học thế giới. Các sáng tác ấy chưa hẳn đã đạt đến chiều sâu của nhận thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật nhưng bước đầu có tác động khá mạnh mẽ đến tư duy sáng tạo của các nhà văn cũng như tâm lí tiếp nhận của bạn đọc. 2. Một trong những phương diện có nhiều dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng ở giai đoạn sau chiến tranh là phương diện đề tài. Đề tài chiến tranh tiếp tục là mảnh đất giàu tiềm năng cho các cây bút khai vỡ. Tuy nhiên khi đi vào đề tài này thấy sự trăn trở, tìm tòi những cách tiếp cận mới. Phần lớn các sáng tác về đề tài này chỉ lấy bối cảnh chiến tranh làm cái nền để bộc lộ những phẩm chất anh dũng, nhân văn của con người. Các tác giả đã cố gắng tạo ra sự hài hòa khi thể hiện sự khốc liệt của cuộc chiến tranh với tinh thần nhân bản của con người và tinh thần chiến đấu của dân tộc. Mặt khác, sự chú ý của các cây bút nghiêng về khai thác những hậu quả của chiến tranh, những sự lầm lạc phản bội, những cái giá phải trả cho chiến thắng. ở đó, con người cá nhân được thể hiện một cách sinh động, toàn vẹn, sâu sắc. Nhờ vậy, nhiều truyện ngắn giai đoạn này đã bộc lộ những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, góp phần làm cân bằng trở lại cách nhìn nhận con người trong văn xuôi thời kì chiến tranh. Cùng với đề tài chiến tranh là sự xuất hiện của đề tài thế sự, đời tư. Từ sau năm 1980 trở đi đây là đề tài giữ vai trò trung tâm của nền văn học. Truyện ngắn sau chiến tranh đã tạo được những hiệu quả cao khi đi vào một cảnh đời, một tâm trạng trong những tình huống tiêu biểu của cuộc sống thường nhật. Với ý thức nhạy bén và sự gắn bó với cuộc sống, các nhà văn đã xới lên những vấn đề của cuộc sống đương đại để vừa rung một hồi chuông cảnh tỉnh vừa khẳng định niềm tin vào con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 Trong giai đoạn chiến tranh, nền văn học gắn với cảm húng sử thi, với âm điệu ngợi ca và niềm lạc quan cách mạng. Sau khi chiến tranh kết thúc thấy rõ sự chuyển dịch từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng thế sự đời tư. Trong những truyện ngắn giai đoạn 1975-1985 không chỉ có một giọng là ngợi ca mà là sự đan cài của nhiều nguồn cảm hứng cảm hứng đạo đức, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán… Nhưng tất cả đều mang cảm hứng nhân văn về số phận con người cá nhân. 3. Nhìn chung, truyện ngắn giai đoạn 1975- 1985 ngày càng xa đần lối kể lể dài dòng với những biến cố dữ dội mà ngắn gọn hơn, cô đúc hơn trong phương thức biểu hiện. Vai trò của cốt truyện chặt chẽ gay cấn có xu hướng nhường chỗ cho những cốt truyện tâm lí. Truyện ngắn có sức khái quát cao hơn vì đi vào chiều sâu thế giới bên trong tâm hồn con người để bộc lộ quá trình tự nhận thức. Đó là biểu hiện cho sự nhận thức về con người đã đạt đến một tư duy mới, gần với bản chất con người hơn. Đó cũng là kết quả của sự phối hợp của nhiều điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn người dẫn truyện, điểm nhìn của các nhân vật thường đan cài vào nhau làm nổi bật những chân dung, tính cách, số phận nhân vật trong chiều sâu triết lí. Cũng chính vì thế kiểu nhân vật tự nhận thức, nhân vật tính cách, số phận được nhiều nhà văn chú ý lựa chọn. Truyện ngắn cũng đang mở ra những con đường giao tiếp cởi mở hơn với độc giả. Nhà văn không phải là người độc tôn chân lí phán truyền mà tăng cường yếu tố đối thoại với người đọc. Điều đó có thể nhận thấy qua những cách kết thúc mở, những sự phức hợp của giọng điệu. Mười năm truyện ngắn 1975- 1985 là thời gian chuẩn bị tích cực cho sự định hình những nét mới, góp phần quan trọng làm nên một dòng chảy liền mạch cho văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Tài liệu tham khảo 1. Tạ Duy Anh 2002, Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Vân Anh 1985, Hoa xương rồng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 3. Vũ Tuấn Anh 1995, “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-19. 4. Vũ Tuấn Anh 2001, Văn học Việt Nam hiện đại- Nhận thức và thẩm định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Lại Nguyên Ân 1984, Văn học và phê bình, Nxb Tác phẩm mới. Hà Nội. 6. Lại Nguyên Ân 1986, “Thử nhìn lại văn xuôi 10 năm qua”, Tạp chí Văn học, 1. 7. Nguyễn Thị Bình 1996, Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 - Khảo sát trên nét lớn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn. Đại học Sư phạm I, Hà Nội. 8. Bốn mươi lăm truyện ngắn 1975-1985 1985, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 9. Nguyễn Minh Châu 1983, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành Tập tuyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Nguyễn Minh Châu 1985, Bến quê Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 11. Nguyễn Minh Châu 2006, Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Có một đêm như thế 1981 Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1981, Nxb Văn nghệ quân đội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 13. Cơ sở lí luận văn học 1985, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 2. 14. Trần Cương 1986, “Về một vài hướng tiếp cận với đề tài chiến tranh”, Tạp chí Văn học, 3. 15. Phan Cự Đệ 1986, “Mấy vấn đề lí luận của văn học hiện nay”, Tạp chí văn học, 5. 16. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Phan Cự Đệ Chủ biên 2005, Truyện ngắn Việt Nam - Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 18. Trần Thanh Địch 1985, Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Trung Trung Đỉnh 1986, Đêm nguyệt thực Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 20. Hà Minh Đức Chủ biên 2000, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Tái bản lần thứ 6 21. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình 1995, Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi từ sau cách mạng tháng tám đến nay, Hà Nội. 22. Bùi Hiển 1981, Nằm vạ Tập truyện ngắn, Nxb văn học, Hà Nội. 23. Bùi Hiển 1985, Tâm tưởng Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Dương Thu Hương 1981, Những bông bần li Tập truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 25. Lê Thị Hường 1995, Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1975 -1995, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 26. Nguyễn Văn Kha 2006, Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. 27. Nguyễn Khải1982, Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 28. Phùng Ngọc Kiếm 2002, Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945- 1975, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 29. Nguyễn Kiên 1986, Đáy nước Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 30. Duy Khán 1985, Tuổi thơ im lặng Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 31. Ma Văn kháng 1986, Ngày đẹp trời Tập truyện,Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Ma Văn Kháng1985, Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 33. Lê Minh Khuê 1981, Đoạn kết Tập truyện, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 34. Lê Minh Khuê 1986, Một chiều xa thành phố Tập truyện, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 35. Tôn Phương Lan 2002, Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tái bản lần thứ nhất 36. Tôn Phương Lan 2005, Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa h?c xã h?i, Hà Nội. 37. Phong Lê 1994, Văn học và công cuộc đổi mới Tiểu luận và phê bình, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 38. Phong Lê 1983, “Văn học những năm 80”, Tạp chí Văn học, 3. 39. Nguyễn Văn Long 2003, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn Đồng chủ biên 2006. Văn học Việt Nam sau 1975- Những vấn đề nghiên cứu và giảng dậy. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117 41. Thái Bá Lợi 1982, Vùng chân hòn tàu Tập truyện, Nxb văn học, Hà Nội. 42. Mấy vấn đề văn hoá và phát triển ở Việt nam hiện nay, Bộ Văn hoá thông tin- Thể thao, Hà Nội. 43. Một thời đại văn học mới Tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 44. Mười bốn truyện ngắn Nguyễn Khải, Phạm Hoa, Nhật Tuấn 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 45. Mười bảy truyện ngắn thành phố Hồ Chí Minh 1982, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám 1996, Nxb Đại học quốc gia ,Hà Nội. 47. Bảo Ninh 1987, Trại bảy chú lùn Tập truyện, Nxb Hà Nội. 48. Vương Trí Nhàn 1980, Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 49. Trần Thị Mai Nhi 1994, Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam - giao lưu gặp gỡ, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki 1998, Nxb Giáo dục, Hà Nội.Tái bản lần 1 51. Nguyên Ngọc, “Văn xuôi sau năm 1975. Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển”, Tạp chí Văn học, 4. 52. Phạm Xuân Nguyên 1994, “Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay”, Tạp chí Văn học, 2, trang 26-31. 53. Huỳnh Như Phương 1991, “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học”, Tạp chí Văn học, 4, trang 14-17. 54. Nguyễn Phương Tân, Nguyễn Thị Hạnh tuyển chọn 2002, Truyện ngắn xuất sắc về chiến tranh, Nxb hội nhà văn, Hà Nội. 55. Bùi Việt Thắng 1999, Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118 56. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn - Những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 57. Nguyễn Quang Thân 1994, 15 truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội . 58. Thời gian Tập truyện ngắn được giải thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1983 - 1984 1985, Nxb Tổng cục chính trị, Hà Nội. 59. Thời gian và trang sách Phê bình tiểu luận 1987, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Xuân Thiều 1985, Gió từ miền cát tập truyện, Nxb tác phẩm mới, Hà Nội. 61. Tinh tuyển Văn học Việt Nam Giai đoạn 1945-2000 2004, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 8. 62. Bích Thu 1995, “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống môtip chủ đề”, Tạp chí Văn học, 4. 63. Bích Thu 1996, “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn học, 9, trang 32-36. 64. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm và lời bình 2007, Nxb Văn học, Hà Nội. 65. Truyện ngắn Việt nam 1945-1985 1985, Nxb Văn học, Hà Nội. 66. Truyện ngắn hay Việt Nam thời kì đổi mới 2000, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 67. Truyện ngắn Việt nam thế kỷ XX 2002, Nxb Kim đồng, Hà Nội, 3. 68. Trang giấy trước đèn Phê bình - tiểu luận của Nguyễn Minh Châu 1994, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 69. Nguyễn Mạnh Tuấn 1985, Hành khúc ngày và đêm Tập truyện ngắn, Nxb Lao động, Hà Nội. 70. Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải thưởng Hội nhà văn 1951- 1997. Nxb Hội nhà văn. Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119 71. Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam chọn lọc Thế kỷ 19-20 1996, Nxb Văn học, Hà nội. 72. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề con người trong văn học” in trong Lí luận văn học, 1990, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 73. Lê Ngọc Trà. “Vấn đề văn học phản ánh hiện thực” in trong Lí luận văn học, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh. 74. Võ Văn Trực 1993, Chuyện làng ngày ấy, Nxb Lao động, Hà Nội. 75. Từ điển thuật ngữ văn học 1992, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 76. Trần Đình Sử 1986, “Mấy ghi nhận về sự đổi mới tư duy và hình tượng con người trong văn học ta thập kỷ qua”, Tạp chí Văn học, 6. 77. Trần Đình Sử 1991, “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong nghiên cứu văn học Xô Viết”, Tạp chí Văn học, 1. 78. Trần Đình Sử 1999, Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Trần Đình Sử. “Khái niệm quan niệm nghệ thuật trong văn học Xô Viết” 1991, Tạp chí Văn học , 1. 80. Văn học Việt Nam 1975-1985-Tác phẩm và dư luận 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 81. Việt Nam nửa thế kỷ văn học Kỷ yếu hội thảo 26/9/1995 1997, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 82. Văn học trong giai đoạn cách mạng mới 1984, Nxb Tác phẩm mới - Hội nhà văn, Hà Nội. Các file đính kèm theo tài liệu này
1ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNGTRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠMKHOA NGỮ VĂN--NGUYỄN THỊ THU HÀHiện thực cuộc sống trong truyện ngắn LêMinh Khuê sau 1975KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP 2MỞ ĐẦU1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀISau 1975, đặc biệt là sau 1986, đời sống văn học Việt Nam có nhiều thayđổi. Sự chuyển tiếp từ thời chiến sang thời bình với những quy luật của nó, sựảnh hưởng của công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, cùng những vấn đềbức thiết nổi lên trong lịch sử dân tộc thời hậu chiến,… là nguyên nhân cơbản dẫn đến sự thay đổi của văn học. Văn học bước sang một chặng đườngmới với những chuyển biến tích cực trên nhiều phương bức tranh chung ấy, cùng với sự khởi sắc của tiểu thuyết và kí,truyện ngắn cũng đang có bước đột phá về nghệ thuật. Xuất hiện hàng loạtcây bút nữ năng động như Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Nguyễn Thị Ấm, NguyễnThị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài…mỗi người một phong cách, một nét vẽ, cùnggóp phần làm sinh động hơn, phong phú hơn bức tranh truyện ngắn đươngđại. Lê Minh Khuê là một trong những nhà văn nữ để lại dấu ấn khá đậmtrong làng truyện ngắn sau 1975. Chị để lại ấn tượng bởi một lối viết sắc sảo,chân thực, khách quan, đôi khi lạnh lùng và suồng sã. Chị quan tâm nhiều hơnđến những trăn trở, băn khoăn về số phận con người, thâm nhập sâu hơn vào 3những vùng hiện thực chưa được khai phá. Với bản lĩnh của người cầm bút,với tâm huyết và sự say mê nghề nghiệp, Lê Minh Khuê đã tìm được vị tríxứng đáng trên văn đàn Việt nghiên cứu đề tài Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn LêMinh Khuê sau 1975 chúng tơi hi vọng góp thêm một góc nhìn đối vớitruyện ngắn Lê Minh Khuê cũng như định vị được vai trị, vị trí của cây búttruyện ngắn này trong dòng chảy truyện ngắn đương LỊCH SỬ VẤN ĐỀLà một nhà văn, nhà báo năng động và nhạy cảm, ngịi bút Lê MinhKh sớm thích ứng với thời cuộc. Nếu trước 1975, những trang văn đẹp củachị là những trang viết sống động về chiến tranh, về huyền thoại người línhthì sau 1975 những sáng tác hấp dẫn, để lại dư ba là những tác phẩm mạnhdạn chạm đến những vấn đề gai góc của cuộc sống đời thường. Cuộc sốngthời hậu chiến ngổn ngang, bề bộn là mảnh đất màu mỡ để ngòi bút của chịthăng hoa. Chị viết nhiều. Sau khi khởi động bằng tập truyện ngắn Đoạn kết1981, chị tiếp tục tăng tốc với Một chiều xa thành phố 1987, Bi kịch nhỏ1993, Lê Minh Khuê – truyện ngắn 1994, Trong làn gió heo may 1999,Màu xanh man trá 2006, Một mình qua đường 2006, Những ngơi sao,trái đất, dịng sơng 2009 …Truyện ngắn của chị dành được sự quan tâm đặcbiệt của bạn đọc và các nhà nghiên Thị Đức Hạnh trong bài viết Lê Minh Khuê ngòi bút truyện ngắnsung sức nhận xét “Lê Minh Khuê là một cây bút nữ có nhiều đóng góp vềtruyện ngắn. Từ hồn nhiên trong trẻo đến sắc sảo, nghiêm ngặt, chị ln cóchất giọng riêng…Việc đổi mới bút pháp trong những năm gần đây là dấuhiệu đáng mừng. Lê Minh Khuê là một trong những cây bút đầy tài năng vàrất sung sức”.[7] 4Là người viết nghiên cứu và phê bình già dặn, nhiều kinh nghiệm, BùiViệt Thắng khi bàn về truyện ngắn Lê Minh Khuê cũng đã nhận định “LêMinh Khuê là một nhà văn có phong cách độc đáo”, sử dụng nhiều giọngđiệu khác nhau. Nhưng về cơ bản Lê Minh Kh có những giọng chính“Giọng điệu trữ tình, giọng hài hước, giễu nhại, giọng lo âu” [19]Còn trong bài Ấn tượng Lê Minh Khuê, Bùi Việt Thắng cho rằng “Cónhững nhà văn viết một cách bình thường về những điều khác thường. Có nhàvăn khác lại lấy giọng khác thường để kể về những điều bình thường. B abenkể về những điều khác thường một cách cũng rất khác thường. Lê Minh Khuêtheo tôi nghĩ thuộc kiểu nhà văn thứ nhất như lời của [20].Cũng bàn về giọng điệu, trong bài Lê Minh Khuê một cốt cách vănchương, Vũ Hà viết “giọng văn của chị là một “giọng văn đẹp và trangnghiêm, khiến độc giả không thể không suy ngẫm, trái tim không ngủ yên” [5].Vượt qua phạm vi đánh giá về một mặt riêng lẻ, hoặc những nhận xét cótính chất khái lược về một tác phẩm cụ thể, Hồ Anh Thái trong bài viết LêMinh Khuê – người đàn bà “viễn thị” đã giúp người đọc có cái nhìn tồndiện hơn về con người cũng như sáng tác của cạnh các nhận xét, đánh giá cao về truyện ngắn Lê Minh Khuê, cònmột vài ý kiến ngược chiều tỏ ra nghi ngờ những vấn đề mà Lê Minh Khuêđặt ra trong tác phẩm. Trong bài Bi kịch nhỏ là một truyện ngắn khôngtrung thực đăng trên Báo Sài Gịn Giải Phóng Chủ nhật ngày 5/9/1993,Trung Nguyễn cho rằng “Bi kịch nhỏ là không trung thực. Dụng ý bơi đenbóp méo sự thật của tác giả thật rõ ràng” .Ngoài những nhận xét, đánh giá của các nhà nghiên cứu, mười năm gầnđây truyện ngắn Lê Minh Khuê cũng nhận được sự quan tâm đặc biệt của sinhviên, học viên cao học tại các trường đại học. Trong luận văn Thạc sĩ Đặcsắc truyện ngắn Lê Minh Khuê, tác giả Nguyễn Thị Đạm Đại học Vinh đã 5khẳng định vị trí và những đóng góp của Lê Minh Khuê trong văn xuôi đươngđại. Luận văn cũng đã chỉ ra những nét đặc sắc của truyện ngắn Lê MinhKhuê trên phương diện kết cấu và giọng điệu. Tuy nhiên, do đề tài khá rộng,phủ hết toàn bộ sáng tác của Lê Minh Khuê trước và sau 1975 nên nhìn chungcịn khái qt, chưa đi sâu vào từng phương diện cụ thể trong sáng tác của luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Mai Đại học sư phạm ĐàNẵng chú ý đến Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Lê Minh luận tập trung nghiên cứu các phương diện Nhân vật trần thuật, điểmnhìn trần thuật, ngơn ngữ trần thuật, giọng điệu trần chung, các bài viết, các nghiên cứu trên bước đầu cũng đã khai vỡđược một số phương diện của truyện ngắn Lê Minh Khuê, đặc biệt nghệ thuậttrần thuật – một bước tiến về mặt nghệ thuật của Lê Minh Khuê được nhiềunghiên cứu quan tâm. Tiếp cận các nghiên cứu trên, chúng tôi chọn nghiêncứu đề tài Hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975hy vọng đem đến cái nhìn tương đối tồn diện về truyện ngắn Lê Minh Khuê,trên cơ sở đó đánh giá những đóng góp của chị đối với tiến trình vận động củatruyện ngắn đương ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN Đối tượng nghiên cứuĐối tượng khảo sát chính của đề tài là 4 tập truyện ngắn của Lê MinhKhuê Bi kịch nhỏ Nxb Hội nhà văn, 1993; Màu xanh man trá Nxb Phụnữ, 2006; Một mình qua đường Nxb Phụ nữ, 2006; Những ngơi sao, tráiđất, dịng sơng Nxb Phụ nữ, 2009. Ngồi ra đề tài cịn tham khảo một sốtruyện ngắn trước 1975 của Lê Minh Khuê để vận dụng trong quá trình sosánh, đối Phạm vi nghiên cứu 6Với đề tài này, khóa luận tập trung nghiên cứu bức tranh hiện thựctrong truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 và các phương thức biểu hiện đặcsắc như nhân vật trần thuật, kết cấu và giọng PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUThực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau- Phương pháp thống kê- Phương pháp đối chiếu – so sánh- Phương pháp phân tích – tổng hợp5. BỐ CỤC KHĨA LUẬNNgồi phần Mở đầu và Kết luận, khóa luận cấu trúc gồm 3 chươngChương 1 Truyện ngắn Lê Minh Khuê trong tiến trình truyện ngắn sau 1975Chương 2 Truyện ngắn Lê Minh Khuê sau 1975 – bức tranh hiện thực nhiềumàu sắcChương 3 Phương thức biểu hiện hiện thực cuộc sống trong truyện ngắn LêMinh Khuê sau 1975 7 8Chương 1TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ TRONG TIẾN TRÌNHTRUYỆN NGẮN SAU LÊ MINH KHUÊ - NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG ĐỜI, NHỮNG CHẶNGĐƯỜNG Những chặng đường đờiCuộc đời là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hành trìnhsáng tạo văn chương của nhà văn. Từ cuộc đời người đọc có thể tìm thấy sựđồng cảm, tri âm cũng như chân dung, quan niệm văn chương của chính tácgiả. Đối với Lê Minh Khuê, mỗi chặng đường đời in dấu rất rõ trong hànhtrình sáng tạo nghệ thuật của Minh Khuê tên khai sinh là Lê Thị Minh Khuê, sinh ngày 6 tháng 12năm 1949, tại xã An Hải, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Lê Minh Khuê mồcôi cha mẹ từ rất sớm, lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của chú và chú u thích văn học Pháp, sách vở của ơng đã mở ra trong tâm hồncô bé một thế giới mới, ươm mầm hạt giống văn chương đầu tiên trong LêMinh 1965, chiến tranh diễn ra vô cùng ác liệt, cô gái tỉnh Thanh chưađầy 16 tuổi rời ghế nhà trường, tham gia kháng chiến. Những tháng năm giankhổ, đối đầu với bom rơi, đạn nổ khốc liệt suốt ngày đêm trên tuyến đườngHồ Chí Minh lịch sử, cơ gái đầy mẫn cảm ấy đã tận mắt chứng kiến sự khốcliệt của chiến tranh, lặng lẽ khóc bên những nấm mộ đồng đội ngã xuống,nhiều đêm mất ngủ, trăn trở, suy nghĩ về chiến tranh, về đất nước, con những năm tháng gian khổ đầy thử thách ấy là nguồn cảm xúc dồi dàotrong những sáng tác sau này của nhà văn. 9Năm 1967, chị bị thương và điều trị tại quân y viện. Với lòng say mê văn họccùng sự động viên của nhiều người, Lê Minh Khuê bắt đầu viết và lần lượt cho rađời những bài ghi chép, phóng sự, truyện ngắn dưới bút danh Vũ Thị 1969 chị được chuyển về làm phóng viên báo Tiền Phong, đếnnăm 1973 chị đi B. Đây cũng là thời gian chị làm phóng viên của đài truyềnhình Việt Nam 1973 – 1977. Công việc thông tấn gấp gáp dường như khơngthích hợp với tố chất của chị. Năm 1978 Lê Minh Khuê chuyển sang làm biêntập viên của nhà xuất bản Hội nhà nay, đã nghỉ hưu nhưng chị vẫn được tín nhiệm đảm trách cươngvị Chủ tịch hội đồng văn xi của Hội nhà văn Hà Nội, Phó chủ tịch hội đồngvăn xuôi Hội nhà văn Việt Nam. Và điều đáng ghi nhận hơn cả, con ngườicủa công việc không bao giờ ngừng nghỉ trong chị, vừa làm việc Lê MinhKhuê vừa sáng tác, các tác phẩm của chị vừa ra đời đã được sự đón đọc nồngnhiệt của nhiều thế hệ bạn Những chặng đường vănKhai sinh đứa con đầu lòng Bức tranh in trên báo Văn nghệ năm 1971,kí tên Vũ Thị Miền, Lê Minh Khuê tỏ ra là một cây bút có duyên với truyệnngắn. Từ những bước đi đầu tiên đến với văn chương và dần hiện lên rõ nétqua từng trang viết, ngịi bút của chị càng viết càng chín. Chặng đường văncủa chị là một quá trình phát triển liên tục, đều đặn, trải dài trên cả hai mốcthời gian trước và sau 1975, để cổ vũ cho tinh thần chiến đấu của tồn dân tộc, ngịi bútLê Minh Kh chủ yếu hướng vào đề tài chiến tranh, ca ngợi những conngười đang chiến đấu ngoài mặt trận, những con người đặt lợi ích chung củađất nước lên trên quyền lợi cá nhân, sẵn sàng hi sinh cái tôi cũng như mọiquyền lợi chính đáng để chung tay góp sức vào cuộc kháng chiến bảo vệ tổquốc. Các nhân vật của chị được đặt trong các cao điểm bom đạn, ranh giới 10giữa sự sống và cái chết rất mong manh, nhưng tất cả không làm vơi đi nhiệthuyết của tuổi trẻ, họ sẵn sàng chấp chặng thứ nhất này Lê Minh Khuê đã sáng tác tất cả 12 truyện gồmCon sáo nhỏ của tôi, Bạn bè tôi, Nơi bắt đầu những bức tranh, Những ngôisao xa xôi, Cao điểm mùa hạ, Mẹ, Tình u người lính, Con trai của nhữngngười chiến sĩ, Bình minh ven biển, Chuyện nhỏ hồi chiến tranh và haitruyện cuối cuộc chiến Anh kĩ sư dạo trước, Bầu trời trong xanh. Trong số12 truyện đó, ngồi 10 truyện đầu tác giả xây dựng nhân vật theo mơ hình lýtưởng của văn học thời chiến, 2 truyện sáng tác cuối cuộc chiến có sự thay đổivề nghệ thuật xây dựng nhân vật, báo hiệu cho sự vận động trong cái nhìncũng như bút pháp của nhà văn trên con đường văn nghiệp của sang chặng thứ hai, ngòi bút Lê Minh Khuê càng sung sức. Mộtloạt truyện ngắn ra đời trong sự nỗ lực đổi mới của chị. Tuy nhiên, một số tácphẩm vẫn còn dấu ấn của phong cách sáng tác trước 1975. Nhưng đến khi tậptruyện ngắn Một chiều xa thành phố 1987, tập truyện ngắn được giảithưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1987 xuất hiện thì truyện ngắn LêMinh Khuê thực sự chuyển hướng. Sau tập Một chiều xa thành phố 1987 làsự kế tiếp của Bi kịch nhỏ 1993, Lê Minh Khuê – truyện ngắn 1994,Trong làn gió heo may 1999, Màu xanh man trá 2006, Một mình quađường 2006, Những ngơi sao, trái đất, dịng sơng 2009.Với quan niệm “Văn chương phải là văn chương. Người viết không nênkể sống sít cho xong một câu chuyện, một tâm trạng mà khơng bộc lộ được ýtưởng chính. Đã viết văn, thì cần phải cẩn thận từng dấu chấm, dấu phẩy, cáchdùng từ, cách diễn đạt cảm xúc”, các tác phẩm của Lê Minh Khuê ngày càng thuhút được đông đảo bạn đọc trên nhiều vùng miền tổ quốc. Bên cạnh giải thưởngcủa Tạp chí Văn nghệ Quân đội Bi kịch nhỏ, giải thưởng của Hội nhà vănMột chiều xa thành phố, Trong làn gió heo may, tháng 4 năm 2008 với tập 11truyện ngắn Những ngơi sao, trái đất, dịng sơng chị đã nhận được giải thưởngvăn học quốc tế của Hàn Quốc mang tên văn hào Byeong – Ju một cách tổng quan hai chặng đường sáng tác của Lê Minh Kh,có thể thấy chị xứng đáng được tơn vinh là cây bút truyện ngắn xuất sắc trongdòng văn học đương đại Việt Nam. Chín tập truyện ngắn được sáng tác tronghai giai đoạn khác nhau. Mỗi giai đoạn tập trung vào một mảng đề tài cụ thểvà sự thay đổi khơng ngừng về bút pháp. Đó là những nỗ lực của Lê MinhKhuê trên hành trình sáng TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ TRONG DÒNG CHẢYTRUYỆN NGẮN SAU Vài phác thảo về bức tranh truyện ngắn sau 1975Bước ra khỏi cuộc chiến tranh với tâm thế của người thắng cuộc, thếnhưng chúng ta lại vấp phải vô vàn khó khăn khi bắt tay vào cơng cuộc xâydựng và bảo vệ tổ quốc. Với những di chứng đau thương cịn sót lại của chiếntranh cộng thêm vào đó là sự bất cập của cơ chế bao cấp lạc hậu đã đặt ra yêucầu cấp thiết cho Đảng và nhà nước ta, là cần phải có một đường lối đổi mớiphù hợp với nhu cầu phát triển của đất hội Đảng lần thứ VI 12/1986 là mốc đánh dấu sự chuyển mìnhcủa xã hội Việt Nam, mở ra thời kì mới đưa đất nước phát triển theo conđường cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa. Hịa chung vào khơng khí đổi mới củađất nước, văn học đã có sự chuyển mình và phát triển trên nhiều phương cạnh những đổi mới về nội dung và nghệ thuật; sự cách tân về mặt thểloại cũng là bước tiến đáng kể của văn học thời kì này. Cùng với tiểu thuyếtvà kí, truyện ngắn đã gặt hái được nhiều thành công. Không những phong phúvề nội dung, đề tài, truyện ngắn còn đạt đến độ kết tinh về mặt nghệ biệt có độ lùi nhất định về thời gian, truyện ngắn có điều kiện suy ngẫm,chiêm ngiệm về những vấn đề đã và đang xảy ra sâu sắc và chín chắn hơn. 12Bàn về sự đổi mới của truyện ngắn sau 1975, không thể không nhắcđến sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người. Nếu truyện ngắntrước 1975 khám phá con người dưới ánh sáng của lý tưởng và cảm hứng sửthi, thì truyện ngắn sau 1975 đã đi sâu vào đời sống nội tâm, để cảm nhậnnhững suy tư thầm kín, những nỗi niềm trắc ẩn của con người. Con ngườiđược khai thác ở nhiều bình diện, trong nhiều mối quan hệ đan xen, chồngchéo, đặc biệt đời sống tâm linh, vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời trần thế, tìnhyêu, tình dục đã được truyện ngắn mạnh dạn tiệm cận. Truyện ngắn giai đoạnnày xuất hiện nhiều kiểu nhân vật mới mà trước đây chưa có như nhân vậtsám hối, nhân vật cô đơn, nhân vật bản năng. Các kiểu nhân vật này có thể bắtgặp trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Lập, MaVăn Kháng, Võ Thị Hảo…Bên cạnh sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người, truyệnngắn sau 1975 cịn có nhiều cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân xây dựng nhân vật trong truyện ngắn bây giờ khơng cịn là xây dựngnhân vật điển hình trong hồn cảnh điển hình, tiêu biểu cho một xã hội, mộtgiai cấp nhất định như trước nữa. Sau 1975 với sự phát triển của đời sốngmới, kéo theo đó là bao bộn bề, lo toan của cuộc sống thường ngày đã tácđộng mạnh mẽ đến đời sống văn học. Cuộc sống thời hậu chiến là một thếgiới sống động, đa chiều, đa diện được tạo nên bởi những mảng hiện thực đadạng, nhiều gam màu. Và con người trong văn học hôm nay không phải đơnphiến, đơn trị như trước mà thay vào đó là con người đa chiều, lưỡng diện vớinhiều giá trị khác nhau nhân cách và phi nhân cách, ý thức và vô ý thức, khátvọng cao thượng và dục vọng thấp hèn…Truyện ngắn giai đoạn này cịn có sự cách tân về mặt kết cấu. Nếu nhưtrước đây, truyện ngắn chủ yếu được xây dựng theo kiểu kết đơn tuyến, diễnbiến sự kiện theo mạch thời gian thì kết cấu truyện ngắn sau 1975 đã có sự 13biến hóa, xuất hiện cốt truyện phân mảnh, lắp ghép. Và các mảnh ghép khơngcịn được mơ tả theo trật tự tuyến tính, mà được phục dựng thơng qua thủpháp hồi tưởng, ghép nối, cắt dán khá mới lạ. Kết thúc truyện ngắn cũng khábất ngờ và ấn tượng. Hầu hết truyện ngắn sử dụng kiểu kết cấu mở - bỏ ngỏvấn đề, sự kiện tạo cơ hội để người đọc cùng đối thoại, cùng tranh 1975, truyện ngắn tiếp cận hiện thực ở cự li gần bằng thái độ thânmật, suồng sã, vì vậy mà ngơn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn giai đoạnnày mang đậm tính khẩu ngữ. Ngơn ngữ khơng cịn mang tính chất hoa mĩ,trang trọng như trước đây, thay vào đó là lớp ngơn ngữ mộc mạc, giản dị, gầngũi với cuộc sống đời thường. Sự cách tân về mặt giọng điệu cũng là điểmmới đáng ghi nhận của truyện ngắn. Nếu như truyện ngắn trước 1975 nổi lênvới giọng ngợi ca đậm chất sử thi thì truyện ngắn sau 1975 thật sự sinh độngvới sự kết hợp, hòa phối bởi nhiều kiểu giọng giọng phấn chấn, ngợi ca;giọng hài hước, châm biếm; giọng trầm tư, xúc cảm; giọng chiêm nghiệm,triết lý. Có thể nói, đây là một trong những yếu tố làm nên thành công củatruyện ngắn sau 1975, đưa truyện ngắn đến gần với bạn lại chặng đường phát triển của truyện ngắn, có thể thấy hơn bamươi năm khơng ngừng vận động và chuyển biến, truyện ngắn đã có nhữngbước tiến dài về mặt nghệ thuật đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người,về kỉ thuật xây dựng nhân vật, về kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu…tất cả đemlại cho truyện ngắn một diện mạo mới, hấp dẫn người đọc như nhà vănNguyễn Minh Châu từng nhận “Chỉ cần ít trang văn xi mà họ có thể làmnổ tung trong tình cảm và ý nghĩ người đọc những điều rất xa và da diết củacon người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại vẫnkhông thấy chán”. Lê Minh Khuê – cây bút truyện ngắn sắc sảoBước chân vào làng văn từ rất sớm, Lê Minh Khuê đã khẳng định vị trítrên văn đàn. Được ươm mầm văn chương từ nhỏ bởi người chú say mê vănhọc Pháp, cộng thêm vào đó là cuộc đời đầy trải nghiệm của một chiến sĩ thanhniên xung phong, Lê Minh Kh đã có một hành trình sáng tạo nghệ thuật rấtphong phú và đa dạng. Chặng đường văn của chị trải dài trên cả hai mốc thờigian đánh dấu sự chuyển mình của văn học dân tộc trước và sau 1975, người đọc tìm thấy trong những trang văn của Lê Minh Khuêhình ảnh của một nhà văn đồng thời là một người chiến sĩ, dùng văn chương đểphục vụ nhiệm vụ chính trị và cổ vũ tinh thần chiến đấu của dân tộc. Đọc tácphẩm Lê Minh Khuê giai đoạn này người đọc sẽ bắt gặp một Lê Minh Khuênăng động dấn thân trên các nẻo đường, trên các mặt trận ác liệt để kịp thời ghinhận những biến chuyển của cuộc kháng chiến, cũng như ngợi ca những conngười đặt lợi ích chung của đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, sẵn sàng hi sinhquyền lợi cá nhân góp sức vào cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc. Nhìn chung,giai đoạn này, chị viết khơng nhiều song truyện ngắn của chị đã thể hiện nhữngkhám phá mới của một cây bút trẻ khao khát sáng tác và trải sang chặng đường thứ hai của hành trình sáng tạo nghệ thuật, ngịibút truyện ngắn Lê Minh Khuê có sự chuyển hướng rõ rệt. Chị quan tâm nhiềuhơn đến số phận con người, đi sâu vào khai thác nội tâm nhân vật kể cả miềnkhuất lấp, trắc ẩn. Đối tượng quan sát trong các tác phẩm của chị cũng đa dạng,phong phú hơn với đầy đủ thành phần từ trí thức, nghệ sĩ, quan chức cho đếntiểu thương, nông dân…, đặc biệt Lê Minh Khuê đã mạnh dạn khai phá nhữngvùng hiện thực phức tạp, đó là sự sa sút của nhân tính, của lịng vị tha, là sự giatăng của cái xấu, cái ác. Viết về cái ác, cái xấu, cái ti tiện, cái bất nhân, nhưngkhơng phải vì thế mà cho rằng nhà văn chán ghét cuộc sống. Viết về cái xấu lànhằm thức tỉnh con người, nhằm xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn. 15Nếu như ở chặng thứ nhất, với khuynh hướng sử thi kết hợp với cảmhứng lãng mạn, Lê Minh Khuê khai thác con người ở vẻ đẹp cộng đồng, họ hầuhết là những chiến sĩ cách mạng, kết thúc truyện bao giờ cũng tươi sáng, trànđầy niềm lạc quan, tin tưởng, thì đến chặng thứ hai khuynh hướng sử thi đãđược thay thế bằng khuynh hướng phi sử thi hóa, con người được nhìn ở góccạnh đời tư thế sự, được nhìn nhiều chiều với đầy đủ các tính cách của conngười thực cạnh sự đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người, truyện ngắn LêMinh Khuê cũng đang dần đạt được nhiều cách tân về mặt kết cấu. Nếu nhưtrước 1975 truyện ngắn của chị chủ yếu được xây dựng theo lối kết cấu đơntuyến, thì sau 1975 kết cấu truyện ngắn của chị biến hóa theo hướng hiện hết truyện ngắn của chị giai đoạn này có kết thúc khá bất ngờ, ấn cạnh đó, ngơn ngữ và giọng điệu cũng đạt được nhiều bước tiến đáng ghinhận. Ngơn ngữ mang tính chất trang trọng trước đây được thay thế bằng lớpngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với cuộc sống đời thường. Giọng điệu thìhấp dẫn, sinh động hơn bởi sự đan xen nhiều kiểu giọng giọng hài hước, giễunhại, giọng trữ tình thương cảm, giọng chiêm nghiệm, triết lý…Nhìn lại hành trình sáng tạo của Lê Minh Kh, có thể nhận xét chị làcây bút truyện ngắn sắc sảo. Mạnh dạn lao vào những vùng hiện thực nguyhiểm, mạnh dạn mổ xẻ bằng “lưỡi dao” sắc cạnh, truyện ngắn của chị thực sựđể lại dấu ấn trên dòng chảy truyện ngắn đương đại Việt Nam. 16Chương 2TRUYỆN NGẮN LÊ MINH KHUÊ SAU 1975 –BỨC TRANH HIỆN THỰC NHIỀU MÀU HIỆN THỰC NHÌN TỪ SỨC MẠNH ĐỒNG TIỀNTrong xã hội Truyện Kiều, đồng tiền mang trong mình sức mạnh tác quáighê gớm“Quan lại vì tiền mà bất chấp cơng lý; sai nha vì tiền mà tra tấn chacon Vương ông; Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh vì tiền mà làm nghềbn thịt bán người; Sở Khanh vì tiền mà tán tận lương tâm; Khuyển, Ưng vìtiền mà làm những điều đại ác. Cả một xã hội chạy theo đồng tiền. Đồng tiền cơhồ đã thành một thế lực vạn năng. Tài hoa, nhan sắc, tình nghĩa, nhân phẩm,cơng lý đều khơng có nghĩa lý gì trước thế lực của đồng tiền”.Trong thời đại ngày nay, đồng tiền càng khẳng định rõ hơn sức mạnh củanó. Đồng tiền khơng chỉ là nguồn lực của sự phát triển, nâng cao đời sống xãhội, mà đồng tiền còn làm đảo lộn cuộc sống, làm suy vi những giá trị đạo đức,làm mai một ý chí, nhân phẩm con người…Dường như, đồng tiền đang nghiễmnhiên trở thành một lực lượng vơ hình chi phối tồn bộ cuộc sống xã hội. Về sựthao túng của đồng tiền, có lẽ Lê Minh Khuê là nhà văn đã có nhiều thành côngnhất Đồng tiền và sự suy vi các giá trị đạo đức xã hộiĐến với tác phẩm của Lê Minh Khuê người đọc như bị lạc vào thếgiới đầy bí ẩn đằng sau mặt trái của đồng tiền. Tất cả các mối quan hệ thiêngliêng, huyết thống bấy lâu nay được trân trọng, gìn giữ giờ đây đang dần maimột bởi sự chi phối của đồng tiền. Nhân vật trong truyện ngắn Lê Minh Khuêsùng bái đồng tiền một cách thái quá. Họ sẵn sàng dẫm đạp lên tất cả miễnsao có tiền. Chém giết, xâu xé nhau vì tiền, có nhân vật đem đồng tiền ra làm 17trị đùa, có kẻ xem đồng tiền là mục tiêu của hành động…Dưới ngòi bút của LêMinh Khuê nhân vật như con thiêu thân lao vào vòng lợi danh của đồng trị đạo đức bị suy vi đến mức cực độ. Ma lực của đồng tiền đã làmcho máu đổ, anh em chém giết nhau, con âm mưu kiếm tiền từ thân xác củangười cha già, ngay cả những đứa trẻ ngây thơ mới lọt lòng mẹ cũng trở thànhmón hàng béo bở của người cha trong cơn thèm thuốc phiện…Khảo sát 4 tập truyện ngắn của chị, chúng tôi thấy nổi lên nhiều truyện ngắnphản ánh sự suy vi của các giá trị đạo đức truyền thống Đồng đơ la vĩ đại, Nhữngkẻ chờ sung, Anh lính Tơ – ny D, Kí sự những mảnh đời trong ngõ, Sân gôn…Đồng đô la vĩ đại là một trong những truyện ngắn thành công của LêMinh Khuê khi viết về mảng hiện thực này. Câu chuyện kể về đại gia đình lãoTrương, một mẫu gia đình điển hình cho sự hám tiền, chỉ trừ thằng Nghẽo dởngười khơng biết gì và cô Trang được xem là “ngôi sao lạ lạc vào bầu trờităm tối nhà lão Trương” còn lại từ con trai cho đến các nàng dâu đều mangtrong mình thói hám tiền. Chỉ vì 100 đơ la cơ Trang gửi về ni thằng Trọngmà gia đình lão Trương đã xảy ra một vụ án “kinh thiên động địa”. An đâmchết chị dâu và cái bào thai bảy tháng tuổi. Kết cục, An lĩnh án tử hình,Khang thì hóa điên. Đồng tiền có sức mạnh ghê gớm, nó làm cho con ngườimất hết lương tâm, mất hết nhân trong Đồng đô la vĩ đại người đọc được chứng kiến một cảnh tượng vôcùng ghê sợ, máu lạnh, với hành động nhẫn tâm đâm chết chị dâu và cái bào thaibảy tháng tuổi của An thì đến truyện ngắn Những kẻ chờ sung vợ chồng lão Têcũng là những kẻ bất nhân không kém. Hiện lên trong truyện ngắn là vợ chồng lãoTê và vợ chồng lão Tái, họ đều có chung một tâm lý chờ đợi, “há miệng chờsung”. Họ hờ hững trước tất cả, lúc nào cũng chỉ trông mong, ỷ lại và chờ đợi vậnmay đến với mình. Tình cảm anh em chỉ thức dậy trong lão Tê khi bức thư của côCành gửi về “Cậu Tê phải tìm cho được cậu Tái, rồi tơi sẽ mang tiền về cho hai 18cậu. Cố tìm nhau. Nếu khơng được thì tơi cũng chưa về và cũng chưa gửi tiền”[10, tr 158]. Vậy là cơng cuộc tìm kiếm người em thất lạc bấy lâu nay được lão Têtiến hành khẩn cấp. Đồng tiền có sức mạnh thật lớn lao, nó có thể đánh thức đượctình anh em bấy lâu nay được chơn vùi trong lịng lão Tê, một con người vốn vơtâm, dửng dưng với tất cả mọi thứ. Đồng tiền đã khiến cho cuộc gặp gỡ giữa haianh em lão Tê trở thành cuộc gặp gỡ định mệnh. Chỉ vì mấy cây vàng, lão Tê đãbất chấp tình máu mủ, sát hại em mình một cách vơ cùng tàn nhẫn. Đến cả nhữngchỉ vàng cuối cùng lão Tái thu ở vùng kín của cơ thể cũng bị lão Tê phát cơ hội lão Tái đang ngủ say thì lão Tê ra tay hành động, lão lấy gối chặnmũi, bóp bộ hạ gần như bị nát ra, khi đụng quần lão Tái nhầy nhụa một thứ nướcgì đó trộn lẫn với phân lão Tê mới bừng tỉnh. Độc ác, nhẫn tâm hơn để phi tangchứng cứ, lão đã cắt thân xác em mình ra làm nhiều mảnh rồi đem chơn xuốngnền nhà. Cái chết thê thảm của lão Tái cùng với bộ dạng điên khùng của lão Tê ởcuối truyện là hậu quả của những việc làm mất nhân tính, vơ lương tâm của conngười khi chạy theo ham muốn, dục vọng của đồng lực của đồng tiền trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê thật quá khủngkhiếp. Lòng tham và sự độc ác, đã biến con người thành một con mãnh thú nhẫntâm sát hại cả những người thân cùng chung dịng máu với sống dường như đang bị đảo lộn bởi đồng tiền, tình cảm anh em máumủ đang ngày càng nhạt lạnh, thay vào đó là những án mạng. Bàn tay vơ hình củađồng tiền trong bóng tối như đang giăng lưới bủa vây, kìm tỏa con người trongvịng xốy của sự tham lam và độc ác. Phải chăng, Lê Minh Khuê đang cố hết sứcmình để kéo họ về phía ánh sáng mặt trời, ánh sáng của sự thức chung mạch đề tài này, truyện ngắn Anh lính Tơ – ny D người đọcđược chứng kiến một màn kịch gay cấn về sự đảo lộn tơn ti trật tự trong gia đìnhthì truyện ngắn Kí sự những mảnh đời trong ngõ lại mở ra trước mắt người đọcmột màn kịch “báo hiếu trả nghĩa cha” đầy kịch tính của vợ chồng lão Tó. Là 19một người có địa vị và một cơng ty hái ra tiền, thế nhưng lão Tó lại là một kẻ vơcùng tham tiền. Nhìn cái chết của cơ Tý câm và sự lên đời của mụ Tít – mẹ cơ Týsau khi được gã lai tây bồi thường mà lão khơng thể kìm nén lịng tham vơ hạncủa mình “mặt Tó trơng rất lạ. Cái gì đó vừa lóe lên như một phát kiến vĩ đại đếnvới ngài, mặt ngài rạng rỡ lên một phút” [11, tr 111]. Vợ chồng lão rắp tâm đemngười bố già yếu của mình ra nằm hóng mát ở lề đường mong thằng tây kia sayrượu chẹt chết để được nhận tiền bồi thường. Vợ chồng lão không ai bảo ai thầmnghĩ “Nhà này đã giàu rồi. Nhưng nếu được chục triệu như mụ Tít thì ai dámchê? Gì chứ mả nhà mình có phát, thằng tây say rượu có xồ vào ơng bố 90 nhàmình. Chục triệu mình khơng thèm. Phải hơn gấp đơi” [11, tr 113]. Sự đời thật trớtrêu, con cái đền công sinh thành của bố bằng cách cầu mong thằng tây say rượuchẹt chết bố mình để nhận tiền bồi thường. Bầu trời dường như bị bao phủ bởimột màu đen tối của đồng tiền, để rồi, đau đớn thay màn kịch khép lại với lời rủacủa vợ chồng lão Tó với thằng tây “Mẹ nó, sao dạo này nó đi đứng cẩn trọngthế?” [11, tr 115].Nếu như Kí sự những mảnh đời trong ngõ đưa người đọc đến với vợchồng lão Tó bất hiếu, mưu cầu tiền bạc từ thân xác ơng bố già 90 tuổi, thì ởtruyện ngắn Sân gôn người đọc lại bắt gặp Lanh, một ông bố mất hết nhân kiếm tiền bằng cách dụ dỗ con mình bán cho bọn bn người qua biên giớiđể thỏa mãn cơn thèm thuốc phiện. Tình phụ tử bị Lanh chối bỏ bằng một câu nóivơ cảm “tơi đang cần tiền mà”. Quan hệ trong gia đình đang đứng trên bờ vựcthẳm. Cuộc sống bây giờ khơng cịn là “môi hở răng lạnh”, “máu chảy ruộtmềm” nữa mà thay vào đó là sự lên ngơi và ngự trị của đồng những truyện ngắn này, Lê Minh Khuê như muốn gióng một hồichng cảnh tỉnh đến tồn xã hội hãy biết trân trọng gìn giữ và nâng niunhững mối quan hệ tốt đẹp trong gia đình, hãy thốt khỏi vũng bùn của cănbệnh trông chờ ỷ lại, “há miệng chờ sung”. Con người cũng nên thay đổi 20cách suy nghĩ, nhìn nhận của mình về đồng tiền, đồng tiền khơng phải là tồnnăng mà ẩn chứa đằng sau nó là biết bao nguy hiểm, tội ác, đau thương có khiphải đổi bằng cả tính Đồng tiền và sự băng hoại lối sống của con ngườiKhông chỉ tác yêu tác quái, khởi nguồn cho những cuộc chiến đẫm máutrong gia đình, đồng tiền cịn tấn cơng làm đảo lộn đạo đức xã hội. Dưới malực hấp dẫn của đồng tiền, những lối sống đẹp đã mất dần thay vào đó là lốisống thực dụng, sùng bái đồng tiền, chạy theo vật chất, chạy theo dục vọng đểrồi dẫm đạp lên sự đau khổ của những người xung con mắt tinh tế của một nhà văn từng trải, Lê Minh Khuê đã soithấu vào những góc khuất của cuộc sống, chị nhận ra rằng trong cuộc đời nàybên cạnh những người tốt vẫn cịn khơng ít những kẻ lừa lọc, tham lam luônsống trong cái tôi cá nhân ích kỉ, nhỏ bé, thấp hèn. Đọc truyện ngắn của chịchúng ta không khỏi bức xúc trước nhân vật Phúc trong Trị chơi cờ bạc lntìm cách trục lợi gia sản, ham muốn giàu sang trong khi đó mình chỉ là mộtanh sinh viên nghèo, tri thức dở dang, lười nhác. Hay Đáng trong Xóm nhỏ,là một trí thức song lại mang trong mình bản chất của kẻ bất nhân, vơ đạođức. Vì đồng tiền, Đáng khơng ngần ngại đẩy bà cô đến cái chết trước tuổi đểcướp đi căn nhà, tiền của kiếm được từ mồ hôi, nước mắt của bà. Nhân vậtSánh trong Những ngày trở về tìm đủ mọi cách để có được những thứ màmình không đổ mồ hôi làm ra. Tất cả các nhân vật trên của Lê Minh Khuê đềulà những kẻ luôn chạy theo lối sống thực dụng, sẵn sàng đánh mất lịng tựtrọng của bản thân dừng lại ở lối sống thực dụng, nhân vật trong truyện ngắn LêMinh Khuê còn hiện ra với lối sống hám tiền, sùng bái đồng tiền để rồi giẫmđạp lên sự đau khổ của những người xung quanh. Trong Đồng tiền có màuxanh huyền ảo, Vĩnh luôn lấy đồng tiền ra giăng bẫy người khác, hắn cho 21rằng “thời buổi này chẳng có cơ nào khơng hợp gu với “đơ” cả?” . Cịn nhânvật Quang thì bảo rằng “cốt tiền là xong ngay”. Cả hai nhân vật này ai cũnghám tiền, sùng bái đồng tiền để rồi họ đã làm hỏng cuộc đời một người con gáihiền lành, trong trắng, có một tình u thủy chung, đáng trân trọng. Họ thảnnhiên, dửng dưng trước sự đau khổ của người khác, nhẫn tâm hơn họ cịn xemđó là thú vui để giải trí qua ngày. Nhân vật Phúc trong Trò chơi cờ bạc, mụctiêu của hắn là tiền và địa vị, hắn đã không ngần ngại bỏ cô bạn gái cưu manghắn lúc hoạn nạn, khó khăn để tìm cách chen chân vào thế giới thượng cạnh những mẫu người sùng bái vật chất, trong truyện ngắn LêMinh Kh cũng có khơng ít những kẻ chạy theo chủ nghĩa cá nhân ích kỉ. Đólà hai đứa con gái của ơng Lăng trong Ga xép, vì tiền chúng đã bỏ mặc ngườicha hết lòng yêu thương trong một ngôi nhà vắng lạnh. Hai đứa con gái lãoluôn nghĩ rằng hạnh phúc là được sống trong nhà cao cửa đẹp, trong sự giàusang phú quý, song chúng không hề hiểu tình thương u, sự quan tâm, chămsóc của con người mới là quan trọng. Những đứa con ông Lăng là hiện thâncủa lối sống ích kỉ, chỉ biết bản thân mình, quên đi đạo hiếu, trách nhiệm vàbổn phận làm con. Ngoài ra, dưới sức hút của đồng tiền cũng có khơng ítngười đang dần mất đi tinh thần trách nhiệm, vô cảm, thờ ơ trước hiện thựcđang xảy ra quanh mình. Quang Nguyên trong truyện ngắn Anh kĩ sư dạotrước, trước kia vốn là một người có tấm lịng dũng cảm, khơng ngại giankhổ, vất vả vượt qua mọi khó khăn, thế nhưng sau khi quay về với cuộc sốngđời thường anh trở nên là một con người dửng dưng, thờ ơ với mọi thứ xungquanh. Hay trong Bầu trời trong xanh, Ninh – một nữ phóng viên trên mặttrận, đã từng lăn lộn, xông pha đầy nhiệt huyết trên chiến trường, thế nhưngsau này cô đã đánh mất bản thân mình. Dường như cả Quang Nguyên và Ninhđều là những người thiếu bản lĩnh, thiếu sự vững vàng trước vịng xốy củacuộc đời và sự cám dỗ của cuộc sống phù hoa. Sự thay đổi, biến chất của họ 22một phần do sự tác động của hiện thực cuộc sống, một phần bắt nguồn từ sựích kỉ của cá nhân, để rồi họ buông xuôi tất cả, trở thành những con ngườibàng quan, sống thiếu trách qua truyện ngắn, Lê Minh Khuê đã mở ra trước mắt người đọc cảmột không gian xã hội rộng lớn với rất loại người và lối sống khác nhau. Tất cảhọ đều bị đồng tiền lôi cuốn, làm băng hoại, làm thay đổi con người và lốisống. Mỗi truyện như một bài học, một lời khuyên răn thức tỉnh con người, hãybiết giữ lấy thuần phong mỹ tục truyền thống của dân tộc, hãy để tình yêuthương dẫn lối hành vi, để có một lối sống đẹp – nhân văn hơn, người hơn. Đóchính là thơng điệp mà Lê Minh Kh gửi gắm đến bạn đọc thơng qua các tácphẩm của HIỆN THỰC NHÌN TỪ CHÂN DUNG NHỮNG CON NGƯỜI THA HĨACuộc sống thay đổi, góc nhìn hiện thực của các nhà văn cũng có sự đổikhác. Nhà văn bây giờ đang dần mở rộng biên độ hiện thực trong các tácphẩm của mình. Họ đi sâu hơn vào những miền ẩn khuất sâu thẳm của đờisống nội tâm, lắng nghe những tâm tư, khát vọng của con người. Họ mạnhdạn phơi trần những mặt trái của cuộc sống với đầy rẫy những mâu thuẩn,những bi kịch. Đọc truyện ngắn Lê Minh Khuê, chúng ta không khỏi ngạcnhiên trước chân dung những con người đang ngày càng trượt dài trên conđường của sự tha Chân dung người trí thứcNếu như người trí thức trong tác phẩm của Nam Cao “sống mịn” vì cuộcsống vật chất, thiếu túng thì người trí thức trong truyện ngắn Lê Minh Kh“chết mịn” khơng chỉ bởi gánh nặng cơm áo gạo tiền mà còn bởi sự tụt hậu,thiếu bản lĩnh, thiếu hiểu biết. Viết về người trí thức, Lê Minh Kh đi sâu vàoviệc nhìn nhận, đánh giá đối tượng trên nhiều phương diện như nghề nghiệp 23chun mơn, văn hóa ứng xử. Có thể nói, đây là một mảng hiện thực được LêMinh Khuê dành rất nhiều thời gian, công sức cũng như số lượng tác bật trong mảng hiện thực này là truyện ngắn Thân phận cu li. Tácphẩm viết về ơng giáo Trí, một người luôn tự mãn về kiến thức và sự xuấtthân của mình. Nắm trong tay ba bằng đại học thế nhưng cả cuộc đời mìnhơng khơng thể nào phát huy được đống chữ nghĩa đó. Cơng việc vĩ đại củaơng là cả ngày ngồi tính tốn chi tiêu như thế nào cho vừa đồng lương, tìmcách đối phó như thế nào với cái dạ dày. Thế nhưng, ông vẫn khơng ý thứcđược tấn bi kịch của cuộc đời mình mà ln tự xem mình là số một, hơn tấtthảy mọi người, ơng ln nghĩ “trên đời thật khó có ai có thể sánh với ơng”.Nếu như ơng giáo Trí được khai thác ở khía cạnh một trí thức lạc hậu, tựthỏa mãn về kiến thức của mình, ln phải đối phó với cái nghèo, cái đói thì ngườithầy trong truyện ngắn Thầy giáo dạy triết lại được nhìn nhận ở góc độ chunmơn. Thầy ln dạy những kiến thức lỗi thời, những điều mà bây giờ bọn trẻkhông quan tâm nữa, môn triết của thầy dường như đang đi ngược lại những điềumà bọn trẻ nghĩ ngợi “ra trường thì sao đây?”. Truyện ngắn vẽ ra trước mắtngười đọc chân dung một ông thầy thụ động, kém linh hoạt, cũng là một kẻ sốngbẩn thỉu, nhếch nhác, thiếu trách nhiệm ngay cả với chính bản thân ơng giáo dạy văn già trong truyện ngắn Ronan keating lại là mộttrong những mẫu nhân vật đại diện cho sự tụt hậu trầm trọng về kiến thức vănhóa, đời sống, trở thành đối tượng gây cười cho chính học trị của mình. Cảmột đời dạy học, ơng ln ra những đề bài “mờ mịt”, “bí hiểm”, để rồi khigiải thích những đề văn đó, cơ học trị của ơng đã đưa ra những câu nói triết lýngụy danh là của Ronan keating khơng ăn khớp gì với đề bài, song bài vănvẫn đạt điểm khá. Ơng giáo ln phân vân Ronan keating là ai? Là nhà triếthọc thế kỉ nào? Nhưng cuối cùng khi nghe sự giải thích của cơ học trị nhỏ đó 24là tên một ca sĩ hát sô – lô trong ban nhạc hải ngoại và tiếng cười đầy vui thúcủa nó, lúc đó ơng mới thực sự vỡ lẽ và tỉnh giáo viên dạy sinh học trong truyện ngắn Thằn lằn cũng không phảilà một trường hợp ngoại lệ. Bao nhiêu năm lăn lộn trên bục giảng lão mớichợt nhận ra rằng mình khơng bằng con thằn lằn – một lồi vật nhỏ bé họ bịsát. Gánh nặng gia đình như vịng xốy cuốn hút lão vào sự đau khổ và tuyệtvọng. Hằng ngày, lão sống trong cảnh bị vợ đay nghiến, mất tự do, mất ăn,mất ngủ cộng thêm vào đó là vốn kiến thức eo hẹp hằng ngày lên lớp khôngđược bù đắp thường xuyên, đã đẩy lão vào bi kịch gia đình. Lão muốn trốnchạy thực tại, tìm về những kỉ niệm thơ mộng ngày xưa, cuối cùng lão đã tìmđến cái chết. Thế nhưng cuộc đời đâu buông tha, cái chết hụt tiếp tục ném lãotrở về với thực tha hóa khơng dừng lại ở việc tự thỏa mãn về kiến thức của mình haysự tụt hậu về tri thức mà đó là sự biến chất hồn tồn. Đáng trong truyện ngắnXóm nhỏ cũng xuất thân từ một trường Đại học, song hắn mang trong mìnhbản chất thất đức, vơ độ. Hắn đối xử một cách hỗn láo với bà cô đã cưu mang,nuôi nấng hắn, “bữa nào ít thức ăn nó đạp cửa mạnh, quăng chậu, quăngbát”, bộ mặt hắn lúc nào cũng giống như một con thú “bộ ria nó vểnh lên, đơimắt nó dữ tợn, nhìn lâng láo trong nhà”. Hắn trả ơn bà cô bằng cách biến bàthành người phục vụ khơng hơn khơng kém. Đau lịng hơn, trong lịng hắnluôn nung nấu ý định chiếm đoạt ngôi nhà mà bà đang ở. Bà cô ốm, hắn thảnnhiên để bà chết cô độc trong bệnh viện. Thế nhưng khi hàng xóm lo xong machay cho người đàn bà xấu số, hắn lại diễn bộ mặt đau điểm của sự vơ văn hóa, thiếu đạo đức của người trí thức phải kểđến nhân vật giáo sư Mùi trong truyện ngắn Chó điên. Lê Minh Kh khơngngại phơi bày bản chất thực của con người này. Mang trong mình học vị giáosư, công tác ở viện nghiên cứu thế nhưng lão không bằng bà vợ làm công việc 25nội trợ, thậm chí khơng bằng một con chó. Lão luôn bị bố vợ coi khinh “bấtcứ ai là giáo sư đều được chỉ trừ thằng Mùi, thằng đó chăn lợn không đắt”[10, tr 63]. Sở dĩ lão bị khinh rẻ như vậy, bởi vì ngay cả trong cơng việcchun mơn hay quan hệ trong gia đình, lão đều tỏ ra là một kẻ vơ ý thức,thiếu văn hóa. Trong quan hệ với vợ, lão dùng phương thức tra tấn cả về thểxác lần tinh thần. Lão đánh vợ, lăng nhục vợ. Trong chun mơn, đầu óc lãorỗng tuếch, vợ gã “biết tỏng cái đầu lão chỉ có một đống bã đáng đổ cho lợnăn”. Ngồi ra lão cịn là một kẻ bất chính, cặp bồ với cơ thư kí cùng cơ tư cách là một giáo sư thì gã dạy cho đàn em những kinh nghiệm màlão để lại “Cứ vơ đại một đề tài rồi vào thư viện mà cóp”, cịn lão thì chẳngcần in sách ở nhà xuất bản, chỉ cần in ra vài chục cái bìa, rồi th hàng phơ tơđóng vào sách phơ tơ thế là thành ấn phẩm, … Xét về góc độ văn hóa, lãokhơng bằng một con chó hay nói đúng hơn đến con chó cũng cảm thấy ghêsợ, xấu hổ cho lão. Lão khạc nhổ, trung tiện, tiểu tiện bừa bãi. Trong con mắtmọi người thì con chó của giáo sư lịch sự hơn chủ của nó nhiều. Lê MinhKhuê đã đặt giáo sư Mùi trong sự đối sánh tương quan với vợ và con chóMích nhà lão, qua đó người đọc nhận diện được chân dung nhơ bẩn, ghê sợcủa vị giáo sư bày thực trạng này, một mặt Lê Minh Khuê trực diện lên án gaygắt những tri thức dởm đang làm suy đồi những giá trị đạo đức truyền thống,mặt khác đánh thức phần lương tri cịn sót lại trong sâu thẳm tâm hồn họ, kêugọi họ cùng chung tay góp sức vào việc ngăn chặn thực trạng tha hóa đang cónguy cơ “di căn” vào nhiều tế bào xã hội. Đồng thời, thông qua thực trạngđáng báo động của giáo dục Việt Nam, chị muốn rung lên một hồi chng báođộng để các cấp, chính quyền có chức năng có biện pháp ngăn chặn và xử lýkịp thời, phát triển nền giáo dục quốc gia một cách toàn diện và bền Chân dung người nghệ sĩ
A. MỞ ĐẦUCác vấn đề của đời sống đã đi vào văn học từ những giai đoạn trước năm1975 và giai đoạn sau năm 1975 tiếp tục kế thừa và phát triển “hiện thực nào vănhọc ấy”. Nếu như trước những năm 1975 văn học là hiện thực của chiến tranh thìsau những năm 1975 không còn chiến tranh, cuộc sống thay đổi vì thế đề tài trongvăn học cũng thay đổi, cuộc sống trở về với những gì bình thường vốn có của vì thế văn học cũng trở về với cuộc sống hòa bình, cùng nhau xây dựng đấtnước. Với cuộc sống hòa bình đòi hỏi các nhà văn phải tiếp cận và khám phá hiệnthực cuộc sống một cách nhân bản với tất cả sự phức tạp vốn có của nó. Trong đóNguyễn Minh Châu thuộc tốp người đi đầu mạnh dạn nhưng lặng lẽ thay đổi tất cảcách nhìn của mình, tự tìm cách đổi mới sáng tác của Minh Châu được mệnh danh là “một trong số những người mởđường tinh anh và tài năng nhất” của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông sáng tácở rất nhiều thể loại Tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn tuy nhiên ở giai đoạn sau1975 truyện ngắn của ông là đặc sắc hơn cả với đề tài thế sự. Ông đã có một loạtcác tập truyện ngắn như “Bến quê” 1980, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốchành” 1983, “Chiếc thuyền ngoài xa”… tất cả đã làm lên tên tuổi của NguyễnMinh Châu những năm đổi NỘI DUNGI. Những vấn đề lý Đề tài thế niệm đề tài Là khái niệm chỉ loại các hiện tượng đời sống được miêutả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan củanội dung tác phẩm. [110]Khái niệm thế sự Là khái niệm để chỉ những sự việc diễn ra trong cuộc sốnghàng tài thế sự Là mảng đề tài nói về những sự việc diễn ra trong cuộc sốngđời giống như thời kỳ sau hòa bình 1954 sau khi giải phóng hoàn toàn miềnNam thống nhất đất nước 1975 một thời kỳ mới đã mở ra trong đời sống xã hộiViệt Nam độc lập – thống nhất – hòa bình. Vượt qua giai đoạn quán tính 19751985 văn học đang tạo đà phát triển mới. Không chỉ phát triển theo những quy luậtnội tại vốn có của bản thân, văn học giờ đây đã nhanh nhạy trước yêu cầu của cuộcsống, tiếp xúc chủ động, mạnh mẽ với các yếu tố ngoại sinh. Sự tiếp xúc đa danghơn trong môi trường văn hóa cởi mở và hội nhập đã làm thay đổi thị hiểu thẩm mỹcủa người đọc và người cầm bút, thúc đẩy quá trình cách tân hiện đại hóa văn năm 1975 đất nước ta bước chân ra khỏi chiến tranh ác liệt và bắt tay xây dựngcuộc sống hòa bình, chính vì vậy ít xuất hiện những tác phẩm viết về chiến tranhthay vào đó đề tài thế sự đã khẳng định được vị thế của mình. Một cuộc sống mớivới biết bao điều mới mẻ, bao nhiêu mối quan hệ phức Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 văn học trở về với cuộc sống đời thường, không còn những tiểuthuyết chiến tranh ác liệt, những hi sinh mất mát nữa. Chính vì vậy văn học phải cósự thay đổi cho phù hợp với đời sống và Nguyễn Minh Châu thuộc lớp người điđầu trong việc đổi mới sáng tác. Ông đã gặt hái được rất nhiều thành công trong đóbao gồm cả thể loại truyện một thời gian ngắn ông đã sáng tác được một loạt các tập truyện ngắn nhưBến quê 1980, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành 1983, Chiếc thuyềnngoài xa 1983, Mẹ con chị Hằng, Đứa ăn cắp, Hương và Phai, Khách ở quê ra,Phiên Chợ Giát, Bức tranh…II. Đề tài thế sự trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau cuộc sống thời bình, đất nước, con người bước vào thời kỳ đổi mớivới muôn mặt đời thường, các quan hệ thế sự của cuộc sống riêng tư. Với sự mẫncảm của mình, Nguyễn Minh Châu đã đi sâu ngòi bút vào những vấn đề của đề tài thế sự, Nguyễn Minh Châu chỉ viết những câu chuyện bình thườngtrong cuộc sống nhưng qua đó là những bài học vô cùng sâu sắc đối với độc giả.“Sắm vai” là truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Nhân vật chínhtrong câu chuyện là anh T. T có thói quen thức dậy lúc hai, ba giờ sáng và ngồi làmviệc đến tận trưa mới đi ăn cho dù trong lúc ấy có hàng trăm con người dậy hối hảăn sáng, tập thể dục, chải tóc. Nhưng đó chỉ là quá khứ còn hiện tại thì khác hoàntoàn. Vì chiều theo cô vợ xinh đẹp, trẻ trung mà đã sẵn sang từ bỏ cả nếp sống quenthuộc. T đã thay đổi thói quen ấy, anh cũng ngủ đến tận 5 giờ sáng, sau đó tập thểdục đến lúc mọi người ăn sáng anh cũng ăn. Anh đi lấy xe đạp về cho vợ, lau chùixe, rồi mấy hôm sau thay hàm răng giả, nhuộm tóc…Vợ anh ở nước ngoài về anhphải chiều vợ với những cái bắt tay kiểu cách, học nhảy, nịnh vợ… Không chỉ đánhmất thói quen, đánh mất bản thân và T còn từ bỏ cả sáng tạo. Qua đó Nguyễn MinhChâu muốn cảnh tỉnh con người trước lối sống tiêu dung phàm tục để rồi đánh mấtcả bản trong truyện ngắn “Đứa ăn ắp”, câu chuyện xoay quanh nhân vật chínhlà Thoan. Thoan vợ của Khánh, cô làm cấp dưỡng và hai người sống trong khu tậpthể cùng với những gia đình khác. Một lần có một người đàn bà trong khu tập thểbị mất hai thước vải hoa rất đẹp phơi ngoài dây, hai ba ngày tìm khắp xó xỉnh màkhông thấy rồi thấy nó ở đáy rương nhà Thoan. Trước đó mọi người cũng có đôilần bị mất cắp và tưởng chừng như những lần đó đều do Thoan lấy cả. Từ đó tưởnglà hết mất cắp nhưng lâu lâu lại xảy ra cắp vặt và họ nghĩ chẳng ai khác ngoàiThoan “lại chỉ có con Thoan chứ không có ai vào đây?”. Cuối tháng 11 có một đợtbiên chế rút gọn người trong cơ quan và quyết định trả cô cấp dưỡng Thoan về trênnhà quê sản xuất. Thoan đang có bầu sắp sinh nên chồng cô muốn xin cho cô nánlại một thời gian đợi sinh xong thì về vì ở quê quá xa bệnh viện. Nhưng nhữngngười đàn bà trong khu tập thể la ó, kêu ca như phải chịu đựng một thứ tai họa. Rồibao nhiêu lời chửi mắng, nguyền rủa Thoan vì vậy chồng cô quyết định đưa cô vềquê. Đến kỳ sinh nở vì ở xa bệnh viên nên cô bị băng huyết và chuyện là tội lỗi về đạo đức trước một người phụ nữ bị chết khi sinh màngười ta đã vu oan, hãm hại đơn giản như thể không chủ tâm, cố ý. Chính thái độthờ ơ vô trách nhiệm với những người cùng sống đã gây ra hậu quả nguy một loạt truyện ngắn về đề tài thế sự sau 1975, Nguyễn Minh Châu đãlàm nổi bật lên sự tự nhận thức của con người. Người họa sỹ trong “Bức tranh” vìtự ái nghề nghiệp mà từ chối vẽ bức tranh chân dung cho người chiến sỹ để anh gửicho mẹ để mẹ yên lòng. Sau đó chính người chiến sỹ ấy đã giúp người họa sỹ vượtqua dòng lũ cuối cùng người họa sỹ cũng chịu vẽ bức chân dung và hứa mang đưađến tận nơi cho bà mẹ. Bao nhiêu bức tranh họa sỹ mất công vẽ thì không đoạt giảingược lại bức tranh chân dung người lính đoạt giải trong cuộc triển lãm và ngườinghệ sỹ năm nào đã quên đi mất lời hứa của mình. Ông đem bức tranh đi triển lãmvà trở thành người nổi tiếng. Tình cờ người họa sỹ gặp lại người chiến sỹ trong thờibình làm nghề cắt tóc và bà mẹ mù vì khóc con quá nhiều. Lương tâm người họa sỹhết sức dằn vặt còn người chiến sỹ thì thản nhiên làm công việc cắt tóc của mìnhnhư không hề nhận ra người năm xưa. Người họa sỹ đã suy nghĩ về chính mình đểphản diện bản thân mình để ánh sáng, con người được thắp lên từ sự chân thành, đểcái xấu, cái thấp hèn được phơi bày trước lương tâm nghiêm minh phán đề trách nhiệm đạo đức trước những người lính của cuộc chiến tranhvừa qua được Nguyễn Minh Châu viết “rất kỹ” trong truyện ngắn Bức tranh đượcviết từ 1976 nhưng đến1982 mới công bố được rất đặc sắc… Bức tranh chưa phảilà kiệt tác của Nguyễn Minh Châu nhưng đó là truyện ngắn bản lề báo hiệu mộtbước chuyển mới trong sáng tạo văn học, dự báo một quan niệm, một bút pháphoàn toàn mới. Trong Bức tranh, không có con người “lý tưởng hóa” mà đó là conngười đa nhân cách Có cả cao đẹp lẫn thấp hèn. Từ những dằn vặt, đối chứng củanhân vật người họa sỹ, câu hỏi lớn - nhức nhối đặt ra cần được trả lời ngay trongtác phẩm là Chúng ta không thể vì cái danh hiệu vinh quang của cộng đồng dântộc mà bỏ qua số phận cá nhân. Cái nhìn của nhà văn đã thay đổi theo hướng nhìnthẳng vào bản chất của hiện thực Chiến tranh không chỉ là ánh hào quang của Chủnghĩa Anh hùng cách mạng mà còn có cả mất mát, đớn đau, giả dối; Chiến tranhcòn làm “cho người ta hư đi hơn là làm người ta tốt hơn”; con người cũng khôngcòn lấp lánh vẻ đẹp thiên thần mà hội tụ cả những ham muốn tầm thường, thấp liền sau Bức tranh là Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành 1983 những vấn đề của “hậu chiến” được Nguyễn Minh Châu suy nghĩ nghiêm túc. Hoặccó thể nói, sau âm hưởng sử thi- anh hùng ca là thứ âm hưởng khác dữ dội hơn,khốc liệt hơn trong các truyện ngắn như Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàutốc hành... Đó là âm hưởng của một nỗi đau không thể nói thành lời trước nhữngmất mát mà chiến tranh gây ra cho dân tộc nói chung, cho mỗi con người cụ thể nóiriêng ...Truyện ngắn Bức tranh có lẽ là điểm đánh dấu rất đáng kể cho một hướngtìm tòi của nhà văn. Không phải ngẫu nhiên ngay ở đầu truyện, nhân vật chính đãgọi câu chuyện của mình là “những lời tự thú”. Có thể gọi đây là truyện ngắn tựthú, là truyện tự ý thức về đạo đức. Đọc truyện, ta sẽ ngập dần vào “cảm giác phạmtội” của nhân vật, ngập dần vào những day dứt như là tự hành hạ mình của ngườiđó. Anh ta, nhân vật họa sĩ có tiếng ấy, không phải là người thất bại, trái lại, làngười thành đạt trong đời. Cái tình thế đã thức dậy ở anh cảm giác có tội, thật ra,cũng không mấy hiển nhiên Chuyện bà mẹ người lính bị mù vì tưởng con trai hysinh và chuyện người họa sĩ quên lời hứa, đã không đem bức tranh hoặc tới thăm bàcụ, báo tin con cụ còn sống − không hẳn là hai việc có quan hệ nhân quả tất yếuhoặc chỉ có vẻ là nhân quả tất yếu trong cách suy nghĩ của nhân vật bây giờ.Nhưng đây chính là nét vốn có của các chuyện tự thú về đạo đức Mức độ tội trạngthực tế càng mơ hồ, càng ít xác định bao nhiêu thì mức độ tự ý thức về tội lỗi củamình ở con người kia càng phải mạnh bấy nhiêu. Vấn đề là anh ta tự thấy mình cótội, tự thấy mình phải chịu trách nhiệm về tai họa của người khác chứ không phải làthật ra anh ta có tội hay không, hoặc mức độ nặng nhẹ ra sao. Một người thànhcông trong đời bỗng thấy mình có tội lỗi gì đấy với ai đấy, ít nhất cũng có nghĩa làanh ta thấy mình chưa hoàn thiện. Và cũng có nghĩa là anh ta có khát vọng tự hoànthiện. Phương diện tích cực, đáng khích lệ của nhân vật là ở đấy. Sức tác động vàosự tự ý thức ở mỗi người đọc truyện sẽ từ đấy mà ra. Những truyện loại này củaNguyễn Minh Châu không hấp dẫn người đọc ở cốt truyện gay cấn hay chi tiết đặcsắc. Nó hấp dẫn người ta chủ yếu bằng độ căng của những tấn kịch nội tâm, độcăng của những thao thức dằn vặt trong bề sâu ý thức nhân vật. Khá gần gũivới Bức tranh về mặt này là Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành. Câu chuyệncủa nữ nhân vật chính − quân y sĩ Quỳ − có thể gọi là lịch sử một tâm hồn. Nhưng,với tất cả tính chất riêng tư của con người này, ta vẫn thấy đấy là một tâm hồnmang “hệ số chung” nhiều hơn là một ngoại lệ. Sẽ không thấy được cái “hệ sốchung” ấy nếu tìm nó qua sự đại diện về thành phần, hoặc qua mức độ phổ biến củakiểu người, kiểu tâm trạng mà các nhân vật của Nguyễn Minh Châu có thể đại diện.“Hệ số chung” ấy, theo tôi là ở tính chất khá “tầm cỡ” của những tình thế xung độtnội tâm mà rõ ràng là nhà văn có dụng ý nhấn mạnh. Nếu nhìn nhận những trườnghợp của Quỳ, của anh họa sĩ như là những trường hợp thuần túy cá biệt, thì dễ chođó là cường điệu, là không “tự nhiên”, không “giống” như thật… Nhưng như thếthì sẽ là không hiểu tác giả, và không hiểu nghệ thuật. Tôi sẽ không cố sức thuyếtphục bạn đọc bằng những trích dẫn cho thấy rằng trong quan niệm mô tả nghệ thuậtcủa phần đông các nghệ sĩ lớn của thế kỷ XX, thì “đời sống đích thực − là đời sốngnội tâm” Romain Roland “lịch sử đích thực − là lịch sử cá nhân” rằngchính quan niệm như vậy đã làm cho họ không hề lo sợ thu hẹp sức khái quát thờiđại khi tập trung sự mô tả vào một mảnh đất nhỏ hơn một con tem là thế giới bêntrong một con người. Tôi chỉ lưu ý là ở văn xuôi Nguyễn Minh Châu, trong giaiđoạn sáng tác mới đây của ông, nhất là ở thể truyện ngắn, nhà văn như đang cố sứcchuyển những tương quan lớn của đời sống bên ngoài vào đời sống bên trong củamột vài con người cụ thể. Và đến lượt nó, cái “quy mô bên trong” đó của nhân vật,dẫu có hơi khác thường, ít “tự nhiên”, nhưng lại cho thấy tầm vóc không nhỏ bécủa con người ở thời đánh giặc hôm qua cũng như ở thời đấu tranh xây dựng hômnay. Cho đến những sáng tác gần đây nhất, Nguyễn Minh Châu cũng chưa bao giờtỏ ra là thích thú miêu tả và miêu tả thành công phương diện gọi là “cái riêng nhỏbé” thực sự của con người thế tục. Và cái điều vừa là ưu điểm vừa là nhược điểmnày ở ngòi bút ông chỉ “tố cáo” một điều Trước sau ôngvẫn là nhà văn của nhữngtình cảm cao cả − nếu không phải cái cao thượng của những phẩm chất người thìcũng là cái cao lớn, “tầm cỡ” của những tình thế, những vấn đề con người. Tôi nghĩsẽ là không quá đáng lắm nếu nói rằng có thể tìm thấy dấu vết “lịch sử tâm hồn”của một hoặc một số thế hệ người đương thời trong cái “lịch sử tâm hồn” của cô ysĩ Quỳ, “người đàn bà quá ham hố”, được trời phú cho khá nhiều ưu thế giới tínhvà cũng có một đời sống tình cảm khác thường. Cô yêu như thể bị “chinh phục” bởitài năng quân sự xuất chúng của một trung đoàn trưởng, yêu từ “tầm xa”, đầyngưỡng mộ, thán phục, nhưng không thể giữ nguyên được tình cảm ấy khi ở gần,khi thấy anh cũng bình thường, tầm thường như những người khác, “cũng mừng rỡhý hửng khi được thăng cấp… cũng chăn một đàn gà riêng, cũng đánh một cái quầnxà lỏn đi phát rẫy, cũng yêu người này, nói xấu sau lưng người kia”… và hiện thâncủa sự bình thường ấy là bàn tay ra mồ hôi “lúc nào cũng dấp dính” khiến cô khóchịu… Rồi con người ấy hy sinh trong một trận đánh ác liệt. Trong nỗi đau, cônhận ra lầm lẫn của mình “Tôi đã không coi họ là những con người đang sống giữacuộc đời mà lại đòi hỏi nơi họ một thánh nhân. Tôi đã đi tìm cái tuyệt đối khôngbao giờ có”. Nhưng sai lầm này chưa qua hết thì một sai lầm nữa lại lộ ra “Tôiđinh ninh rằng tình yêu của tôi có thể cứu sống được hết tất cả mọi người”. Ấy thếmà, trên thực tế “tình yêu mà tôi tưởng hết sức nhiệm mầu, chẳng cứu sống đượcmột ai cả”. Cho đến quãng đời sau chiến tranh, cô vẫn sống trong quan niệm ấy, vàthật ra, cái tình yêu có sức cứu vớt ấy không phải là không có hiệu quả, khi cô dànhnó cho bạn của người liệt sĩ năm xưa, đưa anh ta ra khỏi nhà tù, trở về vị trí củangười sáng tạo khoa học. Cái lịch trình của một tâm hồn muốn tìm thấy một thánhnhân ở người mình yêu đây là điều nhân vật tự cảm thấy, tự phê phán và muốn tựmình làm một thánh nhân trong tình yêu điều thứ hai này là do người kểchuyện phát hiện và “phê bình” nhân vật Quỳ, − rốt cuộc, nữ nhân vật vẫn chưavượt qua được. Vả chăng, phương cách đúng đắn không phải là dứt bỏ toàn bộquan niệm ấy. Vấn đề là ý thức được tính chất phiến diện cực đoan của quan niệm“đi tìm tuyệt đối” ấy. Yếu tố tự phê phán bộc lộ rõ trong lời nhân vật và lời ngườikể chuyện chính là thực hiện chức năng ý thức và tự ý thức. Cái gọi là “lầm lẫn”của Quỳ, có khi là lầm lẫn thực sự, có khi lại bao hàm một lẽ sống đáng trọng. Nóchưa hiển nhiên cứu sống một ai, cũng chưa hiển nhiên “giết chết” một ai, nhưng,cũng tựa như “cảm giác phạm tội” của người họa sĩ trong Bức tranh, chính vìnhững hậu quả không có gì là hiển nhiên nên sự tự ý thức của nhân vật càng rõ đề là ý thức cho được cái phần “sống ngoài ý thức, không hoàn toàn làm chủđược mình” để chế ngự nó, hoặc nói cách khác là ý thức cho được tương quan giữaý chí chủ quan và thực tế khách quan. Câu chuyện lịch sử một tâm hồn, như vậy,trở thành một câu chuyện triết lý về cách nhận thức, về quan niệm sống. Ý nghĩa ẩndụ của nó là khá rõ. Hơn nữa, chỉ khi thừa nhận bình diện ẩn dụ của câu chuyện, tamới có thể chấp nhận những gì ít nhiều cường điệu nếu nhìn thuần túy theo yêu cầumiêu tả “giống” như thực thông thường. Lại cũng phải lưu ý điều mà nhiều nhànghiên cứu đã nhận thấy ở văn học thế kỷ XX, loại truyện ngụ ý, ngụ ngôn, triếtlý, đã không còn chỉ là một thứ con rối cho các luận đề. Ngược lại, loại truyện nàyđã có dạng sinh hoạt tả thực rõ rệt, nhân vật đã được tạo dựng như một tính bình diện ngụ ý triết lý luôn luôn chìm khuất sau bình diện sinh hoạt tả ta thấy điều này ở truyện của Camus, Kafka, Golding hoặc trong vănhọc Xô-viết, ở Bykov, Aitmatov, Dumbatze Trong văn xuôi ở ta gần đây,chúng ta cũng thấy đặc điểm này ở các truyện của Nguyễn Minh Châu, NguyễnKhải, Nguyễn Kiên, Dìm sâu các ẩn ý triết lý vào mạch truyện “giống thực”là cách truyền sự sống cho ý tưởng ấy, tuy nhiên, mặt khác, người viết loại truyệnnày không thể không tìm cách cho ẩn ý kia thỉnh thoảng lại lộ ra, nhô ra. Do vậymà thường có những không khí khác thường cho nhân vật bộc lộ tâm sự, tâm trạng,giống như bị phục rượu mà phải nói to lên những ý nghĩ bao quát hơn, trừu tượnghơn so với lời nói của họ trong các cảnh ngộ thông Khúng trong “Phiên chợ Giáp” đi bán bò già cho người ta làm thịt ở chợCầu Giáp, lão đi từ 3 giờ đến 7 giờ, quãng đương đi ấy hết 5h đồng hồ. Song cuộchành trình đó lại là những hồi tưởng về quãng đời trước kia, những đau khổ nhọcnhằn, những phi lý đọa đầy, lừa đảo, cái sống và cái chết và cả những giọt nướcmắt. Nguyễn Minh Châu đã dựng lên hình tượng người nông dân vừa là bò khoangvừa là lão Khúng, hai mà một, một mà hai. Bò khoang là hiện thân của sức chịuđựng bền bỉ làm việc nhẫn nại “suốt đời nai lung ra làm kéo cày”. Đối lập với hiệnthực cuộc sống khắc nghiệt là mơ ước giải thoát, thoát khỏi cuộc sống lam lũ cơcực không phải kéo cày, kéo xe và được ăn uống thỏa thuê. Chính vì thế lão Khúngđã giải thoát cho con bò khoang không chỉ chứng tỏ tình thương, lòng tốt mà còncó ý nghĩa là sự tự giải thoát. Nhưng đến kết truyện, từ rừng sâu con bò lại quay trởlại với chủ qua đó ta thấy sự quẩn quanh của số kiếp bò khoang là sự thất bại củaảo tưởng tự một số tác phẩm Nguyễn Minh Châu đã phơi bày những mặt trái của xãhội từ đó đưa ra những bài học đúng đắn trong cách nhìn nhận cuộc sống cũng nhưđánh giá con người.“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn tiêu biểu. Theo yêu cầu của trưởngphòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung cũng là nơianh từng chiến đấu để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày“phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đólà cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưngkhi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến từ chínhchiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đánh đập vợ một cách dã man, đứa convì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lạitiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp... Theo lời mời của chánh ánĐẩu một người đồng đội cũ của Phùng người đàn bà hàng chài đã đến toà ánhuyện. Tại đây, người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhấtquyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đócũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, ngườinghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền vàbiển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiệnlên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũngthấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ bước ra từ tấm hai phát hiện của nghệ sỹ Phùng với sự đối lập một bên là bức tranhcảnh biển buổi sớm đẹp toàn thiện toàn mỹ với một bên là cuộc sống lam lũ vất vảđặc biệt là nạn bạo lực trong gia đình người đàn bà hang chai, Nguyễn Minh Châuđã đưa ra bài đúng đắn trong cách nhìn nhận cuộc sống. Để đánh giá một sự việc,vấn đề thì phải đi sâu vào bản chất bên trong, không nên đứng từ xa rồi đưa ra nhậnxét. Cũng đừng đồng nhất vẻ đẹp bên ngoài với bản chất bên trong. Với câu chuyệncủa người đang bà hàng chài tại tòa án huyện tác giả đưa ra cái nhìn đa chiều trongnhìn nhận cuộc sống. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà hàng chài bỏ chồng, mụcđích của hai người là tốt tuy nhiên cái nhìn của họ chỉ một chiều, đơn giản. Họ chỉnghĩ đến mực đích duy nhất là giải thoát cho người phụ nữ ấy. Còn ngược lạingười đàn bà hang chai lại suy nghĩ vô cùng sâu sắc. Người phụ nữ ấy không bỏchồng trước hết vì chị biết ơn chồng. Chính người chồng đã lấy chị trong khi tất cảmọi người chê xấu. Chị thấu hiểu chồng và biết bản chất của chồng không phải vũphu mà do hoàn cảnh. Cuối cùng chị lo cho các con, không có bố các con lấy gì ăn,lấy ai dậy bảo, chăm từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh bình, hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất. Đặc biệt là câu chuyệncủa người đàn bà làng chài ở tòa án huyện. Bề ngoài,đó là một người đàn bà nhẫnnhục,cam chịu,bị chồng thường xuyên hành hạ,đánh đập thật khốn khổ “ba ngàymột trận nhẹ,năm ngày một trận nặng”, nhưng người đàn bà vẫn kiên quyết gắn bóvới lão đàn ông ấy “Con lạy quý tòa.. Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù concũng được,đừng bắt con bỏ nó”. Nguồn gốc của những nghịch lí đó là tình thươngvô bờ đối với những đứa con “Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phảicó người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng..phảisống cho con chứ không phải sống cho mình”. Phùng từng là người lính chiến đấugiải phóng miền Nam khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giảiphóng được số phận của người đàn bà bất hạnh. Qua câu chuyện của người đàn bà,Phùng càng thấm thía Không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao ngườiđàn bà vùng biển thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biếtbao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh. Người đàn bà ấythật đáng chia sẻ cảm thông. Lão đàn ông trước kia là một “anh con trai cục tínhnhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác. Ông ta vừa là nạn nhân của cuộcsống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thâncủa thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy? Trongmột gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị của Phác, cậubé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào? Những người nghệ sĩ như Phùng,những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đờinhư vậy?Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo. Những tình huống chứa đầy sựnghịch lí Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng thực tếvẫn có hình ảnh con người. Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh tuyệt đẹp thìchính trong đó lại chứa những cái xấu ác. Một người đàn bà bị chồng đánh dã mannhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão. Những nghịch lí đó vẫn tồn tại trong cuộcđời như nói lên một triết lí sâu sắc “Cuộc sống không hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá. Người nghệ sỹ phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều khiphản ánh cuộc sống.”Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng đã tạo ra một điểmnhìn trần thuật sắc sảo. Lời kể trở nên khách quan, chân thật giàu sức thuyết ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người Giọng lão đànông thô bỉ, lời người đàn bà xót xa cam chịu…Việc sử dụng ngôn ngữ sáng tạo đãgóp phần khắc sâu hơn chủ đề, tư tưởng của tác ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách nhìnnhận cuộc sống và con người Mỗi người trong cõi đời, nhất là người nghệ sĩ,không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một cáchnhìn đa dạng nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiệntượng. Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự - triết lý của nhà văn NguyễnMinh Minh Châu còn có tài tạo dựng tình huống truyện để người đọc nhậnthức và khám phá vấn đề mới mẻ trong những tình huống nghịch lý để ta nhận ratriết lý của con người đời “Bến quê” nhân vật Nhĩ là người đã từng đặt chân đến mọi ngóc ngách, đikhắp mọi nơi trên thế giới vậy mà đến cuối đời Nhĩ nhận ra mình chưa từng đặttrên lên bãi bồi bên kia sông, hiện tại Nhĩ không thể nào thực hiện được mơ ước đónữa. Qua nghịch lý ấy nhà văn muốn để cho người đọc suy ngẫm về cuộc sống vàsố phận con người luôn chứa đựng những điều bất thường, những nghịch lý vượtqua ngoài dự định, ước muốn. Cuộc đời con người thường khó tránh khỏi nhữngđiều vòng vèo nhất là khi còn trẻ chỉ khi đã từng trải hoặc ở cảnh ngộ khác thườngnào đó người ta mới nhận thức được những giá trị đích thực của cuộc sống, nhữnggiá trị giản dị mà lại gần gũi quanh ta. Nhưng thường khi nhận thức được điều đócon người thường không còn mấy thời gian và sức lực để đạt tới trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là vẻ đẹp của chiếc thuyền trong buổi sáng mờsương nhưng sau cảnh đẹp đó là cuộc sống của con người cơ cực. Đó là người đànbà bị chồng đánh, đứa con trai vì thương mẹ nên đánh lại cha. Cái đẹp của nghệthuật không chỉ là cái đẹp thuần túy mà còn là cái đẹp gắn với hiện thực, gắn vớicuộc sống của con đó ta thấy Nguyễn Minh Châu là một nhà văn với cái nhìn đa diện, nhiều chiềuvề cuộc sống cũng như cuộc đời của mỗi con người ở nhiều phương diện những truyện ngắn viết về đề tài thế sự, Nguyễn Minh Châu thể hiệngiọng điệu đa thanh cùng với đó là những hình ảnh biểu tượng đa nghĩa. Nếu nhưtrước năm 1975 giọng điệu trong văn học chủ yếu là giọng điệu ngợi ca, thì saunăm 1975 giọng điệu trong các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu phức tạp hơn, lúcchân tình, lúc suồng sã khi lại hài hước, kín đáo. Ông đã sáng tạo ra những biểutượng đa nghĩa như “Chiếc thuyền ngoài xa”.Qua đề tài thế sự trong một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu ta thấyquan niệm về con người của ông cũng có sự thay đổi. Con người hoàn hảo, conngười lý tưởng không còn nữa mà thay vào đó là cái nhìn nhiều chiều về con dụ nhân vật lão Khúng, nhân vật Quỳ, nhân vật người họa sỹ…C. KẾT LUẬNĐúng với mệnh danh là “một trong số những người mở đường tinh anh và tàinăng nhất” của nền văn học Việt Nam hiện đại. Qua những tác phẩm của mình saunăm 1975, Nguyễn Minh Châu đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn đa chiều vềcuộc sống con người sau chiến tranh. Đó là bức tranh cuộc đời nhiều màu, nhiềusắc thái, nhiều gam màu tối sáng khác nhau. Những câu chuyện rất bình thườngnhưng ẩn sau đó là những bài học nhân sinh sâu sắc. Những nghịch lý của cuộc đời,những góc khuất của nó, những số phận con người hay những chiêm nghiệm củanhân vật cũng chính là chiêm nghiệm của tác giả. Tất cả đã được Nguyễn MinhChâu xây dựng trong những tác phẩm viết về đề tài thế sự sau năm 1975 – Mộtbước chuyển mình của thời liệu tham Hồng Mây và cộng sự, 2004. Từ điển Tiếng Việt. Nhà xuất bản thống Lê Bá Hán và cộng sự, 2009. Từ điển thuật ngữ Văn học. Nhà xuất bản Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành tập truyện, NXB Tác phẩm mới, 19835. Bến quê tập truyện, NXB Tác phẩm mới, Tôn Phương Lan và Lại Nguyên Ân, Nguyễn Minh Châu- con người và tácphẩm, NXB Hội Nhà văn, H, Nguyễn Văn Long, Giáo trình Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Támnăm 1945, NXB Đại học sư phạm, Đào Thủy Nguyên chủ biên- Bùi Huy Quảng, Giáo trình Văn học Việt Namhiện đại, NXB Giáo dục Việt Nam.
Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn VN cần được nhìn nhận trên cả hai phương diện vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, yếu tố kỳ ảo thể hiện một quan niệm mới của các nhà văn về thế giới, là sự mở rộng và chiếm lĩnh hiện thực hết sức sinh động. Còn ở tầm vi mô, yếu tố kỳ ảo chính là các hình thức nghệ thuật cụ thể như đối thoại tâm linh, cổ tích hóa, liêu trai hóa, tôn giáo hóa, huyền thoại hóa... - Sau 1975, đặc biệt là sau năm 1986, đời sống văn học VN có nhiều thay đổi. Trong bức tranh chung ấy, chúng ta rất dễ nhận ra sự khởi sắc của thể loại truyện ngắn. Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đã nhận ra xu hướng vận động mới. Nguyên Ngọc từng hồ hởi nhận định “vài ba năm trở lại đây chúng ta được mùa truyện ngắn”; Hoàng Minh Tường thì nhiệt tình khẳng định “ Chưa bao giờ truyện ngắn lại tung phá và biến ảo như thời kỳ này” [ 1]. Bên cạnh việc đổi mới nội dung, các tác giả văn học thời kỳ này cũng có ý thức đổi mới trên bình diện nghệ thuật. “Nếu theo dõi các cuộc thi truyện ngắn gần đây sẽ thấy xu hướng nổi rõ - đa số các cây bút trẻ được người đọc ái mộ thường viết kiểu hiện thực huyền ảo”[ 2]. Yếu tố kỳ ảo được đưa vào trong văn học khá dày đặc, trở thành một “dòng” riêng với những tên tuổi như Võ Thị Hảo, Lưu Sơn Minh, Hòa Vang, Phạm Hải Vân, Nguyễn Huy Thiệp… Như vậy, tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn VN từ các phương diện quan niệm, hình thức nghệ thuật và xu hướng vận động là vấn đề có ý nghĩa. Điều này càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta đã có khoảng lùi cần thiết 30 năm. Đó là khoảng thời gian đủ để đưa ra những nhận định có tính tổng kết về vấn đề khá mới mẻ trong đời sống văn học như Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Thực ra, yếu tố kỳ ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử văn học nhân loại. Có lẽ, trong các tác phẩm văn học dân gian cổ đại, yếu tố kỳ ảo đã có mặt, phản ánh nhận thức còn “ngây thơ”, niềm tin lý tưởng của người cổ đại về thế giới. Yếu tố kỳ ảo thành một dòng chảy liên tục trong dòng chung của lịch sử văn học nhân loại từ thời cổ đại, qua trung đại đến cận đại. Tuy chưa bao giờ đứt đoạn, nhưng tần số xuất hiện, ý nghĩa biểu hiện, quan niệm về cái kỳ ảo ở mỗi thời kỳ lại khác nhau. Do đó, yếu tố kỳ ảo cũng bắt nguồn từ những tiền đề, cơ sở tâm lý, xã hội nhất định. Những yếu tố này có tác động trở lại với quan niệm về cái kỳ ảo của người cầm bút và diện mạo của nó trong nền văn học ở từng quốc gia. Cơ sở tâm lý của yếu tố kỳ ảo xuất phát từ tưởng tượng của con người. “Giai đoạn đầu tiên và thứ nhất của tưởng tượng phải kể là tưởng tượng hoang đường”[ 3]. Như vậy, yếu tố kỳ ảo không phải là cái gì hư vô bên ngoài con người mà nó được bắt nguồn từ chính thế giới tưởng tượng, tinh thần, thế giới nội tâm bí ẩn của con người. Nhưng rõ ràng, sự thể hiện yếu tố kỳ ảo trong văn học mỗi thời kỳ lại không giống nhau. Nó bị chi phối bởi bầu tâm lý xã hội đương thời. Do vậy, yếu tố kỳ ảo cũng bắt nguồn từ những tiền đề xã hội nhất định. Yếu tố kỳ ảo gắn chặt với tâm lý lo sợ của con người về những gì không lý giải được hoặc không được phép lý giải. Yếu tố kỳ ảo thời cổ đại chỉ là sự huyễn tưởng thế giới thực tại mà con người hiểu theo trí tưởng tượng ngây thơ chất phác nguyên thủy. Nhưng, ngay cả với con người thời hiện đại, thế giới tự nhiên vẫn còn ẩn chứa nhiều bí mật mà giới hạn con người chưa thể đạt đến để lý giải nó “cái biết của con người càng lớn lên bao nhiêu thì cái chưa biết của nó cũng lớn lên bấy nhiêu” [ 4]. Mặt khác, yếu tố kỳ ảo còn được sử dụng để phản ánh thái độ của con người về những ẩn ức xã hội, những điều kiêng kị trong xã hội không được phép nói đến. Một trong những mục đích của việc sử dụng yếu tố kỳ ảo chính là để “thoả mãn cái lý tưởng đạo đức đang mâu thuẫn với một môi trường xã hội nhất định” [ 5]. Về khái niệm, tên gọi của yếu tố kỳ ảo cũng chưa thật thống nhất. Mỗi người lại đưa ra cách hiểu khác nhau. Xuất phát từ những tiền đề về tâm lý, xã hội, chúng tôi cho rằng cái kỳ ảo chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, là phương thức tư duy nghệ thuật được biểu hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm ngoài tư duy lý tính của con người. Nó tham gia vào sự phát triển của cốt truyện và tạo nên những phản ứng nhận thức của người tiếp nhận một cách mạnh mẽ, hay nói cách khác, nó tạo nên những cú “sốc” về tâm lý, nhận thức, làm xuất hiện những dấu hỏi về nguồn gốc xuất hiện. Yếu tố kỳ ảo không hoà tan vào các dạng thức khác của tưởng tượng, không bao gồm biện pháp nhân hóa. Như vậy, việc xuất hiện trở lại của yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại đã cho thấy sự đổi mới thực sự của văn học trên nhiều bình diện. Trước hết, đó là sự mở rộng đề tài phản ánh của văn học. Bởi lẽ, cả một thời gian dài 30 năm từ 1945 đến 1975, nền văn học của chúng ta phục vụ cho nhiệm vụ trọng đại nhất của dân tộc lúc bấy giờ là tuyên truyền, vận động và cổ vũ cho cuộc kháng chiến vệ quốc. Đề tài được ưu tiên số một lúc bấy giờ là cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân chống lại kẻ thù. Văn học tập trung xây dựng những con người điển hình của thời đại mới. Tất cả hướng về cuộc sống chung, những tình cảm lớn như tình đồng chí, tình quân dân “Còn gì đẹp trên đời hơn thế / Người với người sống để yêu nhau”Tố Hữu. Vì thế, những tiếng nói cá nhân, những tâm tư nguyện vọng của cá nhân chưa được văn học quan tâm phản ánh đúng mức. Tính chất bất thường của thời chiến cũng phản ánh đầy đủ vào diện mạo của nền văn học. Các thể loại có quy mô lớn như sử thi, tiểu thuyết dài tập cũng phát triển khá mạnh. Nhưng kể từ sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, những vấn đề rộng lớn, những tình cảm lớn thuộc về một thời đã dần nhường chỗ cho những vấn đề về số phận cá nhân. Những tiếng nói riêng đã dần trở thành tâm điểm chú ý của văn học. Đề tài của văn học không chỉ dừng lại ở hiện thực khách quan mà đã chuyển dần sang địa hạt tâm linh, những trăn trở uẩn khúc đang diễn ra quyết liệt trong tâm hồn con người - đặc biệt là những số phận vừa đi qua cuộc chiến. Những diễn biến tâm linh rất khó nắm bắt, những hiện tượng con người không tự lý giải được bằng hình thức suy lý một thời là những nhân tố quyết định hướng các nhà văn đến với địa hạt của yếu tố kỳ ảo. Yếu tố kỳ ảo là một hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm bắt của con người, để từ đó “thấu” con người ở phần nhân tính, mơ hồ và huyền diệu ấy. Bên cạnh đó, yếu tố kỳ ảo cũng cho thấy sự bứt phá của các nhà văn ra khỏi lối viết được xem là “khuôn vàng thước ngọc” một thời. Tác động của các trào lưu văn học thế giới như chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cũng ít nhiều ảnh hưởng đến các nhà văn của chúng ta giai đoạn này. Sự xuất hiện ngày một nhiều trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại từ sau 1975 chính là dấu hiện đổi mới, những nỗ lực cách tân nghệ thuật không thể phủ nhận của các nhà văn hiện đại giai đoạn từ khoảng sau 1986 đến năm 2000. Nguyễn Huy Thiệp được xem là nhà văn sử dụng yếu tố kỳ ảo sớm nhất giai đoạn sau Đổi mới 1989. Viết về cái kỳ ảo, sau Nguyễn Huy Thiệp là hàng loạt cây bút có tên tuổi như Võ Thị Hảo, Lưu Sơn Minh, Quế Hương, Phạm Hải Vân, Hòa Vang. Bên cạnh những cây bút quen thuộc đó còn xuất hiện các gương mặt mới như Nguyễn Thị Ấm, Minh Thu, Huy Nam, thậm chí cả những cây bút nghiệp dư như Văn Như Cương cũng tỏ ra mặn mà với yếu tố kỳ ảo. Như vậy, yếu tố kỳ ảo thực sự là nhu cầu của con người trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX trong việc phản ánh đời sống khách quan và đời sống tinh thần, tâm linh của con người thời hiện đại. Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại thể hiện quan niệm của nhà văn tập trung ở một số phương diện như Quan niệm của con người về thế giới đa chiều và con người tâm linh; quan niệm về sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về những giá trị chân thiện mỹ; cảm hứng nhận thức lại thực tại và chất triết lý. Thông qua yếu tố kỳ ảo, các nhà văn bộc lộ quan niệm về một thế giới đa chiều. Thế giới đa chiều là thế giới ở đó tồn tại song song những yếu tố khả giải - bất khả giải, duy lý - phi lý, tất nhiên - ngẫu nhiên. Thế giới ấy không được nhìn nhận một cách an nhiên như trước mà đã đầy nỗi niềm khắc khoải âu lo. Nếu như ở giai đoạn trước, thế giới được nhìn nhận với con mắt lạc quan đầy tin tưởng, con người luôn tin vào ý chí, sức mạnh và những quy luật đã chiếm lĩnh được, thì giờ đây, con người nhận ra rằng thế giới vẫn mang trong mình nó nhiều điều bí ẩn, những điều con người chưa thể biết trước và đầy bất trắc. Những điều đó thuộc về cái ngẫu nhiên. Nó là một khả năng có thể đem lại cho con người niềm vui, hạnh phúc nhưng cũng có khi lại là nỗi đau, niềm bất hạnh và những tấn bi kịch. Nàng Bua trong Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp và người họa sĩ trong Bức tranh thiếu nữ áo lục của Quế Hương là những ví dụ tiêu biểu. Nàng Bua trở thành “người giàu nhất bản, nhất Mường” từ sau khi ngẫu nhiên đào được một chum đầy vàng bạc. Nàng trở thành người đàn bà hạnh phúc “khi lấy một người thợ săn hiền lành, góa bụa và không con cái”. Nhưng sự giàu có ấy đã không mang lại cho nàng hạnh phúc trọn vẹn. Nàng đã chết khi trở dạ đẻ giữa “đống chăn mềm ấm áp”. Cũng như vậy, bi kịch của người họa sĩ trong Bức tranh thiếu nữ áo lục lại bắt đầu từ lúc “vị cứu tinh” tình cờ xuất hiện. “Anh ta đến chỉ tình cờ núp mưa và chợt rùng mình trước bức tranh ế ẩm của người họa sĩ vô danh …. Vốn sống bằng nghề môi giới tranh, anh ta đánh hơi thấy mình sẽ được gì từ cái gallery thưa thớt mấy người này. Anh ta trở lại với một trùm buôn tranh với tầm cỡ quốc tế, đặc biệt sính tranh Á Đông …. Từ đó, cuộc sống của ông không còn yên ổn nữa. Tiền bạc, danh vọng ùa vào nhà ông như một lũ xâm lăng. Chúng làm mất quân bình mọi cái, khuân đi mọi cái, thay đổi mọi cái. Ngay cả ông cũng không nhận ra vợ con, bạn bè mình. Họ đẹp ra, sang ra, thân tình hết mực nhưng… hoàn toàn xa lạ”. Qua quan niệm về cái ngẫu nhiên trong cuộc đời, các nhà văn có xu hướng muốn đối thoại với quan niệm một thời về thế giới, sự tồn tại và con người. Thế giới được nhìn nhận dưới sự chuyển hóa của những mặt đối lập họa - phúc, ngẫu nhiên - tất nhiên, may - rủi… Cuộc sống vì thế được soi chiếu đa diện, sâu sắc hơn. Bên cạnh đó, thế giới đa chiều còn là thế giới bí ẩn của tâm linh. Thế giới tâm linh trước đây ít được đề cập hoặc gán cho nó cái mác duy tâm thì nay đang được nhìn nhận một cách nghiêm túc, chín chắn hơn. Con người hiện đại đã phải thừa nhận nó như một phần không thể tách rời của cuộc sống con người. Thế giới tâm linh được biểu hiện trước hết qua niềm tin vào sự tồn tại thế giới siêu nhiên bên trên con người “Hình như có một đấng chí tôn nào đó cầm tay dắt tôi đi qua hết cái khổ cái nhục vô cùng của những đời người, những kiếp người” Tính chất kỳ lạ của con người - Nguyễn Minh Châu hay “Tôi tin chắc ở lực lượng siêu việt ở bên trên tôi kia, đang chuyển vần rầm rộ kia, thấu hiểu tất cả, phân minh lắm, rạch ròi, chắc chắn bảo dưỡng tính thiện trong tâm linh con người, có khả năng an ủi, âu yếm đến từng số phận” Thương nhớ đồng quê - Nguyễn Huy Thiệp. Mặt khác, thế giới tâm linh còn được thể hiện qua những biến động tinh tế diễn ra trong tâm hồn người. Thế giới ấy tồn tại cả chiều không gian thứ tư không gian tâm trạng. Trong không gian tâm trạng đó xuất hiện con người tâm linh với những dằn vặt, đổ vỡ. Đó là sự dằn vặt tâm hồn vì sự xa rời chuẩn mực đạo đức, ăn năn vì những lỗi lầm trong quá khứ Nạn dịch, Muối của rừng, Chiếc tù và bị bỏ quên của Nguyễn Huy Thiệp, Hoa đại trắng của Đức Ban, Tiếng rừng của Hiền Phương…. Con người tâm linh cũng được bộc lộ qua sự linh cảm những mối quan hệ linh ứng không thể giải thích được. Linh cảm sợ hãi của người mẹ trong Thương nhớ đồng quê của Nguyễn Huy Thiệp chính là một phần biểu hiện của con người tâm linh. “… Khoảng gần trưa, thấy ở đường Năm có đám đông kêu la khóc lóc đang chạy. Mẹ tôi tự dưng ngã chúi xuống ruộng, thất thanh gọi tôi. ….Tôi và chị Ngữ sợ hãi, tưởng mẹ tôi trúng gió. Mẹ tôi mặt tái đi, tay giơ tới trước mặt như sờ nắn ai. Mẹ tôi gọi “Nhâm ơi Nhâm! Sao em Minh con máu me đầy người thế này?”. Chị Ngữ lay mẹ tôi “U ơi u, sao u nói gở thế?”. Có mấy người từ đám đông trên đường Năm bỗng chạy tách ra băng qua đồng. Có ai đó gào to thảm thiết …. Anh Ngọc … chạy ở phía trước. Anh nói không ra hơi, tôi nghe loáng thoáng, chỉ biết rằng cái Minh em tôi và cái Mị, con dì Lưu đèo nhau đi học về qua ngã ba thì bị ô tô chở cột điện cán chết…” Rõ ràng là, bằng việc khám phá và thể hiện thế giới đa chiều và con người tâm linh, các nhà văn sau 1975 đã xây dựng một kiểu mô hình nhân vật gần gũi hơn, thực hơn trong văn học. Con người thời kỳ này đã được đặt ra ngoài “bầu không khí vô trùng vốn có”, bước dè dặt, vừa đi vừa vấp ngã trước một thế giới đa chiều đầy biến ảo. Con người phải đối diện với chính mình, với số phận của mình với tư cách là một con người riêng lẻ, không nhân danh ai, không dựa vào ai. Nhận thức về thế giới khách quan và nhận thức thế giới tâm linh trở thành một nhu cầu không thể thiếu của con người. Đó là cách tiếp cận hết sức biện chứng về thế giới, mang lại cái nhìn không đơn giản xuôi chiều về cuộc đời và con người - những điều vốn hết sức “đa sự” và phức tạp. Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại còn là sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về những giá trị chân - thiện - mỹ. Yếu tố kỳ ảo trước hết là tiếng chuông cảnh tỉnh con người về sự đổ vỡ những giá trị đạo đức truyền thống, tập trung tô đậm tình cảnh tha hóa sâu sắc của con người thời hiện đại. Giấc ngủ nơi trần thế của Nguyễn Thị Ấm tố cáo sự lạnh lùng vô cảm của con người, Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo, Cứu tinh của Hồ Anh Thái nói về sự tàn nhẫn vô lương, Thợ may của Phạm Hải Vân lại bàn về lòng tham cố hữu của con người… Cái ác qua yếu tố kỳ ảo được thể hiện dưới nhiều hình thức hết sức đa dạng. Có khi nó là sự thể hiện mặc cảm phụ bạc và con người tâm linh sám hối như trong Hoa đại trắng của Đức Ban Bông hoa đại như có mối liên hệ với người vợ đã bị chồng phụ bạc, ruồng rẫy để theo nhân tình mới. Cũng có khi đó là thói nghiện ngập, đam mê thái quá đến mức bệnh hoạn như trong Điếu cày của Phạm Hải Vân. Như vậy, bằng việc hữu hình hóa cái ác qua yếu tố kỳ ảo, các cây bút viết truyện ngắn sau 1975 đã thể hiện nỗi lo âu khắc khoải về sự suy mòn của nhân tính, của đạo lý truyền thống. Giữa lúc giá trị đạo đức bị tấn công từ nhiều phía, ở hiền chưa chắc đã gặp lành, con người tìm đến yếu tố kỳ ảo để tìm đến một giải pháp thăng bằng tâm linh giữa xã hội đầy biến động. Mặc dù truyện ngắn sau 1975 có xu hướng nghiêng nhiều về cảm hứng khai thác, khám phá mặt trái đời sống con người, nói như Vũ Quần Phương “trước mải mê với cái cao cả, nay say sưa với cái thấp hèn…”, thì đây đó vẫn ánh lên cái nhìn đầy bao dung độ lượng, vẫn le lói niềm tin bất diệt vào bản tính tốt đẹp của con người, khẳng định sức sống lâu bền của những giá trị Chân - Thiện - Mỹ. Tiệc xòe vui nhất của Nguyễn Huy Thiệp là sự khẳng định, ngợi ca lòng trung thực của con người, là thiên tính “đáng quý và khó kiếm nhất” hơn cả sự dũng cảm, khôn ngoan và giàu có của người đời. Hạnh của Nguyễn Minh Dậu là niềm tin vào quy luật nhân quả, tin vào sự bất diệt và trường cửu của lương tri, của lòng tốt và vị tha. Hoa chanh cuối vụ của Văn Như Cương cũng là câu chuyện ấm áp, ẩn chứa cái nhìn đầy nhân hậu về cuộc đời, làm sáng lên niềm tin vào con người cả trong những hoàn cảnh trắc trở, bất hạnh. Chi tiết kỳ ảo bàn tay đứa bé bị quắp bẩm sinh “từ từ nở ra như năm cánh hoa. Giữa bàn tay trắng hồng là một nụ hoa chanh còn tươi nguyên và cũng đang từ từ xòe cánh”. Bàn tay ấy đã cứu được người mẹ hồi sinh, là niềm tin của tác giả vào “phép lạ thường ngày”, lẽ công bằng và sự bồi hoàn đền đáp của số phận. Trong khi đó, Bức tranh thiếu nữ áo lục của Quế Hương và Nhân gian của Hoa Ngõ Hạnh lại thể hiện sự nâng niu, đề cao cái Đẹp giữa cuộc đời trần thế. Bi kịch lặp lại bị thả trôi sông của bốn ông Cầm, Kỳ, Thi, Họa khi kết duyên cùng nàng Bảo Trân có sắc đẹp khuynh thành chính là sự gắn kết không thể chia cắt của tài và sắc, tài với tình trong cõi nhân gian. Cái đẹp vẫn tồn tại, cứu rỗi tâm linh con người, vượt lên trên những khổ đau hệ lụy của đời sống dù cho nhiều khi nó cũng phải trải qua lắm nỗi truân chuyên. Thế giới vẫn được xây dựng trên lòng trung thực, khát vọng công lý và vẻ đẹp trường tồn. Tóm lại, việc tiếp cận con người ở hai chiều tốt - xấu là sự dằn lòng bứt phá đầy đau đớn của con người khi vươn tới những khát vọng chân chính. Điều đó phản ánh phạm vi hiện thực đời sống đã được mở rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước, văn học đã áp sát hơn với đời sống “Đời sống được phản ánh một cách gân guốc sống động, thậm chí không hề né tránh cả những mảng tối nhất. Người đọc sửng sốt và kinh ngạc, hả hê và phẫn nộ. Thì ra, văn chương không phải chỉ là một thứ trang sức” Hoàng Minh Tường. Hơn thế, truyện ngắn Việt Nam hiện đại còn là lời nhắc nhở con người cần có thái độ ứng xử chừng mực, phù hợp hơn. Làm cho ghê sợ trước cái ác chính là đích hướng thiện của truyện ngắn sử dụng yếu tố kỳ ảo trong giai đoạn sau 1975. Yếu tố kỳ ảo không chỉ biểu hiện quan niệm về thế giới đa chiều và con người tâm linh, sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về Chân - Thiện - Mỹ mà còn thể hiện cảm hứng nhận thức lại thực tại và chất triết lý. Có thể khẳng định không quá lời rằng chính nhu cầu nhận thức lại thực tại trên tất cả các phương diện đã là một trong những động lực mạnh mẽ đưa nhà văn đến với cái kỳ ảo. Những vấn đề về nhân sinh, về kiếp người ở cấp độ tư tưởng, triết lý cũng được bàn luận. Những vấn đề nhạy cảm này luôn thuộc về phần “ẩn ức xã hội”, những điều cấm kị ít được nói đến. Vì thế, yếu tố kỳ ảo chính là phương tiện tuyệt diệu để các nhà văn đề cập đến điều đó một cách cởi mở và dân chủ hơn. Trước hết, đó là cảm hứng nhận thức về ý nghĩa, giá trị sự sống của con người. Mượn nhân vật Đường Tăng, tác giả Trương Quốc Dũng đã cho người đọc ngộ ra được chân lý vừa cao siêu lại vừa giản đơn muốn giải thoát cho con người, trước hết anh phải là người, là người với ý nghĩa đầy đủ, chân xác nhất của nó. Đường Tăng không thể đạt được mục đích cao cả ban đầu vì “trên đường thỉnh kinh cứu rỗi người đời, ông dần xa lạ với con người. Và khi đã không còn là người thì làm sao đồng cảm mà đòi khai sáng, cứu vớt con người”. Điều này cho ta hiểu vì sao khi Thiên sứ chỉ cho Đường Tăng nhìn thấy xác phàm của mình đang trôi dạt dưới cầu mà mắt ông ta lại “vô hồn”! Cũng mượn hình thức “giả cổ” kiểu Tây Du Ký, Hòa Vang đã cố công nhận thức lại chính Con Người, bản chất Người qua cuộc tuyển “thiên sứ”. Những kết luận gây choáng váng được nhà văn đưa ra hết sức quyết liệt “Nhạt nhẽo là thuộc tính thứ nhất của con người. Gồng gánh suốt đời là thuộc tính thứ hai của con người. Đau đớn thay, có thể ăn thịt người khi đói khát, cùng cực cũng là một thuộc tính của con người…”. Tác giả đã làm cho người đọc nhận thức được mặt trái, hạn chế của con người đồng thời cũng thể hiện dấu hiệu tự nhận thức cá nhân trong văn học hiện nay. Tình yêu trần thế cũng là đề tài “hấp dẫn” cảm hứng triết lý của nhà văn. Triệu Huấn qua Yêu pháp đã thừa nhận “tình yêu thắng hận thù, làm lu mờ đạo pháp và tiêu tan thói tham quyền hiếu chức”. Nhưng cũng có khi đó là sự chiêm nghiệm cay đắng “Yêu là yêu còn lấy là một chuyện khác hẳn …. Yêu mà không lấy, lấy mà không yêu. … Yêu rồi lại bỏ. Đó là quy luật của tình yêu hiện đại” hay “Bây giờ người ta không lấy nhau vì tình yêu nữa đâu. Đơn giản là anh đẹp trai thì tôi yêu, anh nhiều tiền thì tôi lấy. Tội gì không tận hưởng cuộc sống lúc còn đang trẻ trung, kẻo sau này hối chẳng kịp…”, Tính triết lý mạnh mẽ đã tạo nên tiếng nói đa thanh trong quan niệm nhân sinh của truyện ngắn hiện đại. Tính triết lý cho phép con người có cái nhìn biện chứng hơn, thấu triệt hơn về cuộc sống. Cảm hứng triết luận về người phụ nữ và số phận của họ cũng được truyện ngắn sau 1975 chú ý khai thác. Võ Thị Hảo qua chùm truyện Tim vỡ, Nàng tiên xanh xao, Hành trang người đàn bà Âu Lạc tỏ ra đặc biệt hứng thú với đề tài này. Dựa vào cảnh ngộ những người phụ nữ mang nỗi đau của “cả giới đàn bà”, Võ Thị Hảo tìm ra những quy luật nghiệt ngã của đời người phụ nữ “Ôi! Khốn khổ! Khốn khổ cho đàn bà! Kiếp người ngắn ngủi, mà các người thì suốt đời đuổi theo những cao siêu mây gió” Tim vỡ hay “Ôi! Đàn bà! Đàn bà muôn đời vẫn vậy, vẫn không thoát ra khỏi dây xích của sự nhẹ dạ…” Nàng tiên xanh xao. Qua việc tô đạm nỗi thống khổ và bất hạnh, Võ Thị Hảo làm bật lên phẩm chất bao dung độ lượng của người phụ nữ. Hành trang người đàn bà Âu Lạc là tiếng nói chống lại tình trạng bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong xã hội, là sự giãi bày nỗi khổ của người phụ nữ thời hiện đại. Gánh nặng ấy không giảm bớt mà ngày một “đầy thêm những mỹ từ ca ngợi đàn bà. Và mỗi mỹ từ lại óc ách đầy những giọt mồ hôi, nước mắt và cả máu của đàn bà, những sợi tóc bạc, những vệt nhăn nheo trước tuổi”. Tính triết lý còn thể hiện ở cảm hứng nhận thức lại thực tại. Giờ đây, con người không dễ dàng chấp nhận một chiều giản đơn. Những điều xưa nay vốn phải chấp nhận như những tiền đề tất nhiên phải vậy thì nay cũng được đem ra bàn lại. Những quan niệm nhận thức lại đôi khi cho chúng ta những phát hiện thú vị, mới lạ về những điều vốn quen thuộc. Ví dụ trong Sự tích những ngày đẹp trời, Hòa Vang đã dựng lên cuộc gặp gỡ muộn mằn giữa Mị Nương và Thủy Tinh. Chứng minh rằng Thủy Tinh vô tội và yêu rất hết mình, rất đáng thương, tác giả đã thể hiện quan điểm chống lại sự bảo thủ trong suy nghĩ, những tư tưởng bảo thủ như “những triền đê che chắn bình yên một thời nhưng cũng che khuất tầm mắt một thời”. Cảm hứng nhận thức lại cũng được thể hiện rõ trong sự dằn vặt của Đường Tăng trước khi lên cõi Phật. Đường Tăng hiện lên hết sức trần thế, thậm chí đôi lúc vị kỷ, tính toán “mỗi lần cứu giúp con người, ông chỉ thầm tính toán như xây thêm cho mình một bậc thang tới Phật đài”. Những phát hiện thực sự gây sốc mà cũng hết sức thấm thía! Như vậy, yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam cần được nhìn nhận trên cả hai phương diện vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, yếu tố kỳ ảo thể hiện một quan niệm mới của các nhà văn về thế giới, là sự mở rộng và chiếm lĩnh hiện thực hết sức sinh động. Còn ở tầm vi mô, yếu tố kỳ ảo chính là các hình thức nghệ thuật cụ thể như đối thoại tâm linh, giấc mơ, cổ tích hóa, liêu trai hóa, tôn giáo hóa, huyền thoại hóa… Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại giai đoạn này vừa mang những nét chung của cái kỳ ảo Phương Đông vừa mang nét riêng phản ánh bầu không khí thời đại. Yếu tố kỳ ảo giai đoạn này đã có sự phát triển một bậc so với hình thức kỳ ảo truyền thống. Nó không đơn thuần là hình thức chuyển tải các vấn đề đạo đức theo kiểu “thưởng thiện, phạt ác” của ông Bụt, bà Tiên, nó còn là sự sợ hãi, trăn trở của con người nhân tính, khát vọng, tự do, dân chủ thấm đẫm tinh thần thời đại. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi dân tộc ta vừa bước qua một biến cố lịch sử to lớn cuộc chiến tranh vệ quốc. Yếu tố kỳ ảo là ước mơ, khát vọng của con người bấy lâu bị đè nén, hoặc chưa có dịp bộc lộ. Vì thế mà nó trở thành một xu hướng khá rộng, xuất hiện ở nhiều nơi và trong sáng tác của nhiều nhà văn. Nhưng, cũng như bất kỳ một xu hướng văn học nào, yếu tố kỳ ảo gần như đã kết thúc trọn vẹn vai trò lịch sử của nó. Manh nha từ cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, phát triển mạnh ở thập niên 90 rồi thoái trào ở những năm đầu thế kỷ XXI. Nói như thế không phải là sự biến mất hẳn của yếu tố kỳ ảo trong văn học. Người ta vẫn thấy bóng dáng của nó trong Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh, Cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu. Nhưng rõ ràng, yếu tố kỳ ảo ở đây không có gì bứt phá hơn, mới hơn giai đoạn trước đó. Dường như nó nằm trọn trong phạm vi truyền thống của cái kỳ ảo khi nói về các vấn đề đạo đức, xã hội. Sự thoái trào của yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Việt Nam đương đại có thể được lý giải từ nhiều nguyên nhân. Một là, sang đầu thế kỷ XXI, vấn đề về niềm tin, lý tưởng, đạo đức xã hội không còn bức thiết như khoảng thời gian đầu sau chiến tranh. Bên cạnh đó, nhu cầu đào sâu tìm hiểu con người cá nhân, con người bản thể đang trở thành tâm điểm chú ý của nền văn học. Vì thế, dễ nhận thấy, văn học đương đại đang quan tâm nhiều đến sự giải phóng cái tôi cá nhân, con người cá nhân tự do và hiện sinh. Chủ đề giới tính xuất hiện ngày càng nhiều trong văn học với rất nhiều tên tuổi như Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư… Đây thực sự là vấn đề lớn cần nhiều thời gian xem xét và có sức vẫy gọi rất lớn với những ai tâm huyết muốn tìm hiểu. Đồng Xa, ngày 26 tháng 5 năm 2006
truyện ngắn sau 1975